Bản án 98/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 98/2018/HS-ST NGÀY 05/11/2018 VỀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2018/HSST ngày 21 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2018/QĐXXST- HSngày 25 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Huỳnh Vĩnh P ; sinh năm: 1974, tại tỉnh Tiền Giang; Nơi đăng ký nhân

khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ học vấn: 3/12; Con ông: Huỳnh Văn Tốt, sinh năm 1937 và Nguyễn Kim Huê, sinh năm 1941; Vợ: Dương Hồng Tươi, sinh năm 1967; Con: Có 02 người; Tiền sự, tiền án: Không có; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2018 đến nay. Có mặt.

Bị hại: Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2007. Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện hợp pháp của bị hại :

1/ Chị Võ Thị Mỹ L, sinh năm 1985. Vắng mặt.

2/ Anh Nguyễn Hoài P, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Tây Ninh.

Người làm chứng:

1/ Anh Lê Văn S, sinh năm 1991. Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp B, xã D, huyện D, tỉnh Tây Ninh.

2/ Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990. Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp V, xã D, huyện D, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 08/7/2018, Huỳnh Vĩnh P một mình điều khiểnxe mô tô biển số 62H2-7493, đi từ nhà ở huyện Hòa Thành đến xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu để tìm một người bạn làm công nhân tại khu công nghiệp Phước Đông - Bời Lời. Khi đến đoạn đường lô cao su V6 nông trường cao su Gò Dầu thuộc ấp Xóm Bố, xã Hiệp Thạnh, rẽ vào đi qua xã Bàu Đồn, thì thấy phía trước Nguyễn Thị Huyền Trân, sinh năm 2007, một mình chạy xe đạp điện trên xe chở một thùng mì gói, Phước điều khiển xe chạy vượt qua Trân thấy Trân đeo sợi dây chuyền ở cổ nên Phước quay đầu xe chạy hướng ngược lại, lúc này Trân dừng xe sửa lại thùng mì, Phước dùng tay trái giật lấy sợi dây chuyền trên cổ Trân làm Trân té ngã, Phước nắm trong tay sợi dây chuyền, điều khiển xe mô tô bỏ chạy được một đoạn khoảng 300m thì bị anh Lê Văn Sang và anh Phạm Văn Tài, là công nhân cạo mủ cao su gần đó đuổi theo và bắt giữ Phước giao cho Công an xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu, Huỳnh Vĩnh P khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kết luận định giá tài sản số: 59/KL-HĐ ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xác định: 01 sợi dây chuyền vàng 18K, ký hiệu KL, trọng lượng 1,14 chỉ, có giá trị 2.530.000 đồng (Hai triệu năm trăm ba mươi ngàn đồng). 01 mặt dây chuyền vàng 18K, ký hiệu KL, trọng lượng 05 phân, có giá trị 1.110.000 đồng (Một triệu một trăm mười ngàn đồng).

Kết luận giám định số: 799/KL-KTHS ngày 21/7/2018 của Phòng Kỹ thuậthình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định xe mô tô hiệu DAEHAN biển số: 62H2-7493 số khung và số máy không bị đục xóa.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 sợi dây chuyền vàng 18K, ký hiệu KL, trọng lượng 1,14 chỉ đã trả lại cho chủ sở hữu; 01 xe mô tô hiệu DAEHAN biển số: 62H2-7493, dung tích xilanh 97 cm3, số máy: DGE100-1006686, số khung: VDMPCG0011M-006686; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37 màu hồng trắng, số Imei 1: 865265036376518 trong điện thoại có số sim 1: 0936649637, số Imei 2:865265036376500, số sim 2: 01645424625; 01 áo vải thun ngắn tay; tiền ViệtNam 380.000 đồng đã chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnhTây Ninh chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Thị Huyền Trân đã nhận lại sợi dây chuyền vàng. Riêng mặt dây chuyền không tìm thấy, Phước đồng ý bồi thường đúng giá trị cho Trân.

Về kê biên tài sản: Do Huỳnh Vĩnh P không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên.

Cáo trạng số: 92/CT-VKSGD ngày 21-9-2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo Huỳnh Vĩnh P về tội “Cướp giật tài sản” theo Điểm d, g Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong quá trình điều tra, bị hại - Nguyễn Thị Huyền Trân và người đại diện hợp pháp của bị hại – Võ Thị Mỹ Lệ trình bày: Khi bị cướp giật tài sản, cháu Trân không bị thương tích gì. Tài sản cháu Trân bị cướp giật là 01 sợi dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 1,14 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 05 phân. Hiện nay cháu Trân đã nhận lại 01 sợi dây chuyền rồi. Cháu Trân và chị Lệ tiếp tục yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị của mặt dây chuyền theo như kết luận định giá. Về hình phạt chị Lệ và cháu Trân yêu cầu xử lý theo quy định pháp luật.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm d, g Khoản 2 Điều 171; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo mức án từ 04 năm đến 05 năm tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì không có tài sản. Đồng thời áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị xử lý vật chứng và bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bịcáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 08/7/2018, tại khu vực lô cao su V6 nông trường cao su Gò Dầu thuộc ấp Xóm Bố, xã Hiệp Thạnh, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, Huỳnh Vĩnh P điều khiển xe mô tô hiệu Daehan biển số: 62H2-7493 áp sát, rồi dùng tay trái giật lấy sợi dây chuyền vàng trên cổ của cháu Nguyễn Thị Huyền Trân sinh năm 2007 trị giá 3.640.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã dùng thủ đoạn nguy hiểm, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng được thu giữ. Do đó, hành vi của bị cáo đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điểm d, g Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án này mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo không những gây ra bất bình trong dư luận, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân trong việc giữ gìn và bảo vệ tài sản. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo một mức án nghiêm mới có đủ thời gian giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau:

Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng.

Do bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [4] Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên quyếtđịnh truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm d, g Khoản 2 Điều 171; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo mức án từ 04 năm đến 05 năm tù có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Cháu Nguyễn Thị Huyền Trân đã nhận lại 01 sợi dây chuyền vàng 18K, ký hiệu KL, trọng lượng 1,14 chỉ. Cháu Trân tiếp tục yêu cầu bị cáo phải bồi thường 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 05 phân, có giá trị 1.110.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường, nên cần ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 sợi dây chuyền vàng 18K, ký hiệu KL, trọng lượng 1,14 chỉ đã trả lại cho Nguyễn Thị Huyền Trân xong, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

- 01 xe mô tô hiệu DAEHAN biển số: 62H2-7493, dung tích xilanh 97 cm3,số máy: DGE100-1006686, số khung: VDMPCG0011M-006686 là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37 màu hồng trắng, số Imei 1: 865265036376518 trong điện thoại có số sim 1: 0936649637, số Imei 2: 865265036376500, số sim 2: 01645424625 và tiền Việt Nam 380.000 đồng là của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

- 01 áo vải thun ngắn tay bị cáo mặc lúc thực hiện tội phạm, không còn giá trị sử dụng, bị cáo không yêu cầu nhận lại, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Do Hội đồng xét xử kết luận bị cáo có tội, bị kết án và phải bồi thường thiệt hại. Nên bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Huỳnh Vĩnh P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào Điểm d, g Khoản 2 Điều 171; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Huỳnh Vĩnh P 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 08/7/2018.

2/ Các biện pháp tư pháp:

- Căn cứ vào Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:Ghi nhận bị cáo Huỳnh Vĩnh P đồng ý tiếp tục bồi thường cho cháu Nguyễn Thị Huyền Trân 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 05 phân, có giá trị1.110.000 đồng.

Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu DAEHAN biển số: 62H2-7493, dung tích xilanh 97 cm3, số máy: DGE100-1006686, số khung: VDMPCG0011M-006686.

Tuyên trả lại cho bị cáo Huỳnh Vĩnh P : 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37 màu hồng trắng, số Imei 1: 865265036376518 trong điện thoại có số sim 1:0936649637, số Imei 2: 865265036376500, số sim 2: 01645424625 và tiền Việt Nam 380.000.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 áo vải thun ngắn tay.(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu)

3/ Án phí: Căn cứ vào Điều 23, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Huỳnh Vĩnh P phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4/ Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về cướp giật tài sản

Số hiệu:98/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về