Bản án 98/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 98/2018/HS-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 101/2018/HS-ST, ngày 23/7/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2018/QĐXXST-HS ngày 16/8/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Thị Phương A, Sinh năm: 1999 tại Ninh Bình; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: phố VT, phường BĐ, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình; Nơi tạm trú: xóm T, xã KA, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đinh Thanh Q và con bà: Trần Thị T; Chồng, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/5/2018 cho đến nay, có mặt.

Người bị hại: - Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm: 1986

Trú tại: Tổ x khối x, thị trấn VĐ, thị xã ĐB, tỉnh Quảng Nam.

- Chị Lưu Thị H, sinh năm: 1998

Trú tại: Thôn TA, xã NH, huyện NT, tỉnh Nam Định. Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Hứa Châu Đ, sinh năm: 1968. Trú tại: số xx, phường HCB, quận HC, thành phố ĐN.

- Anh Bùi Duy T, sinh năm: 1994. Trú tại: xóm TrungB, xã KH, huyện YK, tỉnh Ninh Bình.

- Cháu Bùi Thị Thanh N, sinh năm: 2002. Người giám hộ: Ông Bùi Văn S,

Trú tại: xóm TB, xã KH, huyện YK, tỉnh Ninh Bình.

Tất cả người bị hại; người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua việc sử dụng mạng xã hội Facebook, bị cáo Đinh Thị Phương A biết được việc mua bán hàng qua mạng dễ dàng nên đã nảy sinh ý định sử dụng điện thoại di động lập các Facebook lấy tên khác nhau như “Đinh Phương”, “Kho Thanh Phương” và “Thanh Phương” đăng tải những hình ảnh quần áo không có thật lấy từ các trang mạng xã hội khác rồi giao bán với giá rẻ. Sau đó chủ động làm quen gửi yêu cầu kết bạn với các tài khoản Facebook khác trên mạng xã hội có nhu cầu mua quần áo với số lượng lớn. Mặc dù không có số lượng quần áo như khách hàng đặt mua nhưng Phương Avẫn nhận đơn hàng sau đó gửi số điện thoại và số tài khoản để khách hàng tin tưởng và tự nguyện chuyển tiền trước. Khi nhận được tiền Phương A không chuyển hàng mà ngắt liên lạc và chặn Facebook chiếm đoạt tiền để chi tiêu cá nhân. Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2018, Đinh Thị Phương A đã hai lần có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 12/2017, Phương A lập và sử dụng tài khoản Facebook “Đinh Phương” chủ động kết bạn làm quen với Facebook “Thu Thủy” của chị Nguyễn Thị Thu T sinh năm 1986 trú tại tổ 1, Khối 4, thị trấn Vĩnh Điện, Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là người không quen biết. Ngày 11/12/2017, chị T lên mạng xã hội thấy tài khoản Facebook “Đinh Phương” đăng tải bán quần áo với giá rẻ nên nhắn tin qua ứng dụng Messenger trên điện thoại để trao đổi giao dịch mua bán quần áo. Qua trao đổi Phương A biết chị T có nhu cầu mua 200 chiếc quần jean, 100 chiếc áo len nữ để bán lấy thêm thu nhập. Mặc dù không có số lượng quần áo như chị T đặt mua nhưng Phương A vẫn nhận đơn hàng. Để tạo sự tin tưởng, Phương A đã lấy video có đăng hình ảnh quần bò và áo len nữ từ tài khoản facebook khác gửi cho chị T để xem mẫu, chọn hàng và báo giá rẻ hơn so với các điểm bán hàng khác. Sau khi xem mẫu quần áo, chị T đồng ý đặt mua và thỏa thuận với Phương A giá 200 chiếc quần Jean là 14.400.000 đồng, 100 chiếc áo len nữ là 5.200.000 đồng, tổng số tiền là 19.600.000đ, thời gian giao hàng vào ngày 14/12/2017. Sau đó Phương A gửi cho chị T số điện thoại 01215590102 và số tài khoản 0221000040984 của Phương A tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Ninh Bình và yêu cầu chị T chuyển tiền trước. Ngày 13/12/2017 chị T đã nhờ chị Nguyễn Hứa Châu Đ sinh năm 19xx trú tại số xx, đường TVG, phường HCB, quận HC, thành phố Đà Nẵng, là người làm cùng công ty chuyển số tiền là 19.600.000 đồng vào tài khoản của Phương A. Sau khi nhận được tiền, Phương A hứa chuyển hàng như cam kết. Đến ngày 16/12/2017, chị T không nhận được hàng nên liên tục nhắn tin và gọi điện cho Phương A để hỏi. Do không có hàng để chuyển cho chị T, Phương A đã ngắt liên lạc và chặn facebook của chị T. Số tiền 19.600.000 đồng Phương A đã sử dụng chi tiêu cá nhân.

Lần thứ hai: Bằng thủ đoạn như trên, khoảng cuối tháng 02/2018 Phương A lập và sử dụng tài khoản Facebook “Kho Thanh Phương” đăng tải hình ảnh quần áo từ các Facebook khác rồi giao bán. Sau đó chủ động gửi lời mời kết bạn với facebook “Lưu Ánh Hồng” của chị Lưu Thị H sinh năm 19xx ở xóm x, thôn TA, xã NH, huyện NT, tỉnh Nam Định, là người không quen biết, chị H đồng ý kết bạn. Quá trình trao đổi Phương A biết chị H cần mua 50 chiếc áo thun nữ và 10 chiếc áo sơ mi nữ. Mặc dù không có số lượng quần áo như chị H đặt mua nhưng Phương A nói dối là có số lượng quần áo như trên. Để tạo sự tin tưởng, Phương A đã lấy video có đăng hình ảnh quần áo từ tài khoản facebook khác gửi cho chị T để xem mẫu, chọn hàng. Qua trao đổi hai bên thỏa thuận 10 áo sơ mi giá 650.000 đồng, 50 chiếc áo thun giá 2.000.000 đồng/chiếc và tiền ship chuyển hàng là 50.000 đồng, tổng số tiền là 2.700.000 đồng. Phương A hứa sẽ chuyển hàng cho chị H trong ngày 27/02/2018 đồng thời cho chị H số điện thoại 0965171035 và số tài khoản 0221000040984 rồi yêu cầu chị H chuyển trước toàn bộ số tiền đặt hàng. Chị H nghi ngờ nên thỏa thuận với Phương A chuyển 50% số tiền đặt hàng trước, khi nhận được hàng sẽ chuyển nốt số tiền còn lại nhưng Phương A không đồng ý và nói “Shop chị làm ăn uy tín”. Để củng cố thêm niềm tin, Phương A gửi cho chị H số thẻ căn cước công dân và địa chỉ của mình. Chị H tin tưởng là thật nên ngày 26/02/2018 đến Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam chi nhánh Nam Định chuyển số tiền 2.700.000 vào tài khoản của Phương A sau đó chụp ảnh biên lai chuyển tiền, đăng ảnh gửi lên mạng Facebook cho Phương A và chờ nhận hàng. Sau khi nhận tiền, Phương A nhắn tin trên Facebook cho chị H là hàng đã chuyển. Đến ngày 28/02/2018 chị H không nhận được hàng nên liên tục gọi điện cho Phương A. Do không có hàng để chuyển nên Phương A đã nói dối là hàng đang gửi, chị H hỏi về số nhà xe mà Phương A gửi hàng thì Phương A chặn facebook và ngắt liên lạc với chị H. Số tiền 2.700.000 đồng Phương A sử dụng tiêu sài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra thu giữ của Đinh Thị Phương A 01 thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 thẻ căn cước công dân đều mang tên Đinh Thị Phương A, 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 8 Plus màu hồng. Thu giữ của chị T 01 chứng từ giao dịch ngân hàng Vietcombank ghi ngày 13/12/2017.

Quá trình điều tra bị cáo Đinh Thị Phương A đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Thu T số tiền 19.600.000 đồng, bồi thường cho chị Lưu Thị H số tiền 2.700.000 đồng. Chị T và chị H đã nhận đủ số tiền trên và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Đinh Thị Phương A.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Đinh Thị Phương A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 20/7/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Đinh Thị Phương A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, không thay đổ, bổ sung và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Thị Phương A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 Điều 52; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đinh Thị Phương A từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo Đinh Thị Phương A được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường BĐ, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án.

Giao bị cáo Đinh Thị Phương A cho Uỷ ban nhân dân phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Trả lại cho bị cáo Đinh Thị Phương A 01 thẻ căn cước công dân mang tên Đinh Thị Phương A.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 8 Plus.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ ngân hàng Vietcombank mang tên Đinh Thị Phương A.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Thị Phương A không có ý kiến gì với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình; đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Đinh Thị Phương A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận trong khoảng thời gian từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2018, mặc dù không có số lượng quần áo lớn để bán nhưng bị cáo Đinh Thị Phương A đã hai lần có hành vi dùng thủ đoạn gian dối đăng thông tin hình ảnh quần áo không có thật lên mạng xã hội giao bán với giá rẻ, làm cho chị Nguyễn Thị Thu T và chị Lưu Thị H tin tưởng là thật đã đặt mua hàng. Chị T tự nguyện chuyển số tiền 19.600.000 đồng, chị H chuyển số tiền 2.700.000 đồng cho Phương A, sau đó Phương A không chuyển hàng mà chặn facebook, ngắt liên lạc và chiếm đoạt tổng số tiền là 22.300.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phương A đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[2] Hành vi bị cáo cố ý gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tuổi đời còn trẻ song không chịu học tập, rèn luyện làm ăn lương thiện mà lợi dụng lòng tin của người khác để lừa đảo chiếm đoạt tiền để tiêu sài cá nhân. Do đó cần xử phạt bị cáo mức hình phạt hợp lý để bị cáo nhận thức rõ về hành vi của mình, sửa chữa sai lầm, trở thành một công dân tốt, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ nêu trên và có nơi thường trú rõ ràng, nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà xử phạt bị cáo bằng hình phạt cải tạo không giam giữ, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, việc cho bị cáo cải tạo tại địa phương không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.

[3] Về khấu trừ thu nhập: Do bị cáo không có việc làm, không có thu nhập thường xuyên, không có tài sản nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Đinh Thị Phương A đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Thu T số tiền 19.600.000 đồng, bồi thường cho chị Lưu Thị H số tiền 2.700.000 đồng. Chị T và chị H đã nhận đủ số tiền trên và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Đinh Thị Phương A. Như vậy về trách nhiệm dân sự đã được giải quyết song nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 8 Plus màu hồng bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 thẻ ngân hàng Vietcombank thu giữ của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo trình bày hiện bị cáo không còn tiền trong thẻ, bị cáo có thể làm thẻ khác để sử dụng, đề nghị tịch thu tiêu hủy, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Trả lại 01 thẻ căn cước công dân mang tên Đinh Thị Phương A

Đối với chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 màu hồng bị cáo khai dùng để giao dịch mua bán quần áo với chị T qua mạng xã hội nhưng do điện thoại đã bị hỏng, bị cáo đã vứt bỏ nhưng không nhớ ở đâu, cơ quan điều tra không thu hồi được nên hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo; người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1, Điều 174; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Thị Phương A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Thị Phương A 24 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo Đinh Thị Phương A được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường BĐ, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án.

Giao bị cáo Đinh Thị Phương A cho Uỷ ban nhân dân phường BĐ, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Đinh Thị Phương A.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự , Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 8 Plus màu hồng thu giữ của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo Đinh Thị Phương A 01 thẻ căn cước công dân mang tên Đinh Thị Phương A.

- Tich thu tiêu hủy 01 thẻ ngân hàng Vietcombank mang tên Đinh Thị Phương A.

(Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 7 năm 2018 giữa Công an Thành phố Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Thị Phương A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:98/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về