Bản án 98/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 98/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn N, sinh ngày 20/01/1974 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn G, xã H, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang C và bà Phạm Thị B; có vợ là Phạm Thị Đ, chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 28/6/2019 đến ngày 04/7/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút, ngày 28/6/2019, Tổ công tác Công an huyện T kết hợp với Công an xã T làm nhiệm vụ tại khu vực thôn N, xã T, huyện T, thành phố H phát hiện Lê Văn N có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, Tổ công tác thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của N có 02 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy); tạm giữ của N một xe mô tô biển kiểm soát 15G1-635.20. Tổ công tác đã đưa N cùng vật chứng về trụ sở cơ quan Công an giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn N khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 28/6/2019, N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-635.20 từ nhà đi sang khu vực đường tàu nội thành để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, N gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 02 gói giấy chứa ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N cất giấu ma túy vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe mô tô về huyện T để tìm nơi sử dụng. Khi N điều khiển xe về đến khu vực thôn N, xã T, huyện T, thành phố H thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 366/KLGĐ ngày 03/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 02 gói giấy thu của Lê Văn N là ma túy, có khối lượng 0,2338 gam, là loại Heroine.

Vật chứng của vụ án gồm: Chất ma túy còn lại sau giám định (01 phong bì niêm phong số 366/2019/PC09) chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý.

Tại bản cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 25/9/2019 Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H đã truy tố Lê Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Văn N khai nhận hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, do nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi đi mua ma túy và cất giấu để sử dụng cho bản thân, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo N đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng 0,2338 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo N từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng đã thu giữ. Buộc bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về tội danh và điều luật áp dụng:

[3]. Bị cáo Lê Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng 0,2338 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là cố ý và nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ, vi phạm Luật phòng chống ma túy, tiếp tay cho hoạt động mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gây nên các loại tội phạm khác. Với hành vi nêu trên, bị cáo N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo N thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất vụ án và hình phạt:

[4]. Bị cáo N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Lê Quang C được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì, do đó cần cho bị cáo N hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo N là đối tượng nghiện ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên mức khởi điểm của khung hình phạt và buộc bị cáo chấp hành tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5]. Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo N là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[6]. 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Trong vụ án này, đối tượng bán trái phép chất ma túy cho Lê Văn N, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15G1-635.20, tài liệu điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của chị Phạm Thị Đ sinh năm 1974 ở thôn G, xã H, huyện T, thành phố H (là vợ của Lê Văn N), chị Đ cho N mượn xe nhưng không biết N sử dụng xe vào việc đi mua ma túy nên sau khi tiến hành các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chị Đ sử dụng là đúng quy định của pháp luật.

- Về án phí: Bị cáo Lê Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Lê Văn N được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn N 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 28/6/2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định (Vật chứng có đặc điểm được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lê Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo Lê Văn N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về