Bản án 99/2018/HSST ngày 12/07/2018 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU-TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 99/2018/HSST NGÀY 12/07/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 88/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2018/QĐXXST-HS, ngày 27/6/2018 đối với các bị cáo:

Bị cáo thứ nhất: Lê Tuấn A, sinh ngày 25/7/1999 tại Bình Định. Nơi cư trú: Thôn C, xã L, thành phố Q, tỉnh Bình Định.

Chỗ ở trước khi bị bắt: Khu nhà trọ số 54 đường Nguyễn Thiếp, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Lê Thanh T, sinh năm 1966; Nghề nghiệp: Ngư dân và con bà Võ Thị G, sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Ngư dân. Cha, mẹ của bị cáo hiện trú tại: Thôn Lý Chánh, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Bị can có 02 chị ruột (sinh năm 1994 và năm 1996). Bị can chưa có vợ. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2018 cho đến nay. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị cáo thứ hai: Trương Quang L, sinh ngày 24/10/2001 tại Bình Định. Nơi cư trú: Thôn C, xã L, thành phố Q , tỉnh Bình Định.

Chỗ ở trước khi bị bắt: Khu nhà trọ số 54 đường Nguyễn Thiếp, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Trương Văn D (đã chết) và con bà Hồ Thị Th, sinh năm 1975; Nghề nghiệp: Nội trợ. Hiện trú tại Thôn H, xã L, thành phố N, tỉnh Bình Định.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2018 cho đến nay. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người bào chữa cho bị cáo Trương Quang L: Ông Tống Đức N - Luật sư thuộc Văn Phòng Luật sư Hà Trung- Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt.

+ Đại diện hợp pháp cho bị cáo Trương Quang L: Bà Hồ Thị T, sinh năm 1975, trú tại: Thôn C, xã L Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Có mặt.

+ Bị hại:

Anh Đinh Quốc N, sinh năm 2000, trú tại: Thôn 4, xã Ia Hlung, huyện IaGrai, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Chị Ngô Thị Diễm A, sinh năm 1977, trú tại: Tổ 13, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

+ Người làm chứng:

Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 2000, trú tại: Thôn Tân Sao, xã IaYok, huyện IaGrai, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Anh Phạm Văn Q, sinh năm 1988. Địa chỉ: Tổ 8, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Quang L và Lê Tuấn A là bạn ở chung phòng trọ tại số 54 đường Nguyễn Thiếp, thành phố Pleiku từ ngày 02/3/2018. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05/3/2018, Tuấn A rủ L đi dạo trên đường tìm ai có tài sản thì cướp giật lấy tiền tiêu xài, Ly đồng ý. Sau đó, Tuấn A điều khiển xe mô tô biển số 77L1-748.17 chở L đi dạo trên đường Phạm Văn Đồng theo hướng từ ngã ba Hoa Lư đi đến ngã tư Biển Hồ, phường Yên Thế, thành phố Pleiku. Khi đi đến trước số nhà 726 đường Phạm Văn Đồng, thuộc tổ 03, phường Yên Thế, Tuấn A phát hiện thấy anh Nguyễn Quang T (sinh năm 2000, trú tại Thôn Tân Sao, xã Ia Yok, huyện Ia Grai) điều khiển xe mô tô (xe do anh T mượn nên không rõ biển số) chở anh Đinh Quốc N (sinh năm 2000, trú tại Thôn 04, xã Ia H’Lung, huyện Ia Grai) chạy cùng chiều phía trước, trên tay anh N cầm chiếc điện thoại hiệu Sam sung J3 Pro nên Tuấn A điều khiển xe mô tô áp sát vào bên trái xe mô tô của anh T. Lúc này, L dùng tay giật lấy chiếc điện thoại, rồi Tuấn A tăng ga chạy thoát về đường Phan Đình Phùng. Khi đi về đến trước quán cà phê Tin Phát đường Phan Đình Phùng, Tổ 04, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, Tuấn Athấy chị Ngô Thị Diễm A (sinh năm 1977, trú tại Tổ 13, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku) đứng bên lề đường trước cửa quán, trên tay cầm chiếc ví da nên Tuấn A nói cho L biết. Sau đó, Tuấn A điều khiển xe mô tô sát gần chị A đứng, L ngồi sau dùng tay giật lấy chiếc ví da bên trong có đựng 5.750.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 chiếc điện thoại hiệu Sam Sung A7, rồi Tuấn A tăng ga điều khiển xe bỏ chạy vào đường Cao Thắng được khoảng 05 mét thì va chạm với người đi đường, bị ngã xuống đường. Lúc này, Chị A truy hô “Cướp, cướp”. Tuấn Anh đứng dậy và điều khiển xe mô tô chạy thoát, còn Trương Quang L bị anh Phạm Văn Q (sinh năm 1988, trú tại Tổ 08, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku) truy đuổi bắt được và báo cho Công an phường Yễn Đỗ đến lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ cùng tang vật là chiếc ví da trên trong có: 5.750.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 chiếc điện thoại hiệu Sam Sung A7 và 01 chiếc điện thoại hiệu Sam sung J3 Pro. Cùng ngày, Công an phường Yên Đỗ đã chuyển Trương Quang L, hồ sơ cùng tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku để điều tra, xử lý. Sau khi biết L bị bắt giữ nên vào ngày 06/3/2018, Lê Tuấn A đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Qua định giá, kết luận: Chiếc điện thoại hiệu Sam sung A7 đã trừ khấu hao có giá trị 3.000.000 đồng; chiếc điện thoại Sam sung J3 Pro đã trừ khấu hao có giá trị 1.200.000 đồng; chiếc ví da xách tay màu đen đã trừ khấu hao có giá trị 50.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã trả lại cho chị Ngô Thị Diễm A, gồm: Chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung A7 cùng chiếc ví da và 5.750.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; trả lại cho anh Đinh Quốc N chiếc điện thoại Sam sung J3 Pro. Hiện bị hại Ngô Thị Diễm A và Đinh Quốc N không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 77L1-748.17, quá trình điều tra, xác định: Chủ sở hữu là bị can Lê Tuấn A nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý sau Tại bản cáo trạng số 92/CTr -VKS ngày 07/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo Lê Tuấn A và Trương Quang L về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn A phạm tội: “Cướp giật tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Lê Tuấn A từ 42 đến 48 tháng tù.

- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 90; Điều 91; Điều 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Trương Quang L phạm tội:

“Cướp giật tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Trương Quang L từ 31 đến 36 tháng tù.

- Căn cứ: Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner, biển số 77L1- 748.17, số máy 10700578, số khung 26096Y045209.

- Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của luật sự bào chữa cho bị cáo Trương Quang L: Đồng ý với việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai, về tội danh, điều luật đề nghị và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ. Tuy nhiên Đại diện viện kiểm sát đề nghị mức án đối bị cáo Trương Quang L từ 31 đến 36 tháng tù là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo L. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo vì bị cáo có cha mất sớm nên thiếu tình cảm và sự giáo dục của người cha, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải và khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 20 giờ ngày 05/3/2018, tại tổ 04, phường Yên Thế, thành phố Pleiku, Lê Tuấn A và Trương Quang L đã sử dụng xe mô tô thực hiện hành vi giật chiếc điện thoại hiệu Sam Sung J3 Pro có giá trị 1.200.000 đồng của anh Đinh Quốc N. Tiếp đó, vào khoảng 21 giờ cùng ngày, tại trước quán cà phê Tin Phát đường Phan Đình Phùng, tổ 04, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, Lê Tuấn A và Trương Quang L tiếp tục sử dụng xe mô tô thực hiện hành vi giật chiếc túi xách bên trong có 5.750.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung A7 có giá trị 3.000.000 đồng của chị Ngô Thị Diễm A. Ngay sau đó, Trương Quang L bị bắt quả tang và bị thu giữ cùng tang vật. Ngày 06/3/2018, Lê Tuấn A ra đầu thú.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên Tòa phù hợp với lời khai của người bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đối với các bị cáo Lê Tuấn A, Trương Quang L phạm tội “Cướp giật tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tình hình tội phạm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai ngày càng gia tăng, phức tạp, manh động và ngày càng nguy hiểm hơn.

[3] Xét: Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, các bị cáo đều là những thanh niên có sức khỏe, đủ nhận thức về pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động, ăn chơi, đua đòi, muốn sống trên thành quả lao động của người khác khi thấy sự sơ hở của chủ ở hữu trong việc quản lý tài sản là các bị cáo liền nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và thực hiện hành vi phạm tội ngay. Các bị cáo đã dùng phương tiện nguy hiểm là xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội, nhằm chiếm đoạt nhanh chóng tài sản rồi tẩu thoát, tài sản các bị cáo chiếm đoạt có tổng giá trị 9.950.000 đồng.

Xét hành vi của từng bị cáo thì thấy rằng:

- Đối với bị cáo Lê Tuấn A là người khởi xướng và rủ bị cáo Trương Quang L thực hiện việc phạm tội, đồng thời bị cáo Lê Tuấn A đã dùng phương tiện của mình là xe mô tô điều khiển xe để bị cáo Trương Quang L trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội.

- Đối với bị cáo Trương Quang L khi được Lê Tuấn A rủ đi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không những không can ngăn mà còn đồng ý ngày và bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực.

Hành vi phạm tội của hai bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm ngang nhau, cả hai bị cáo đã cùng nhau thực hiện 02 lần phạm tội nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, nên cần phải xử các bị cáo một mức án nghiêm.

[4] Tuy nhiên xét quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tối, chưa có tiền án tiền sự; người bị hại chị Ngô Thị Diễm A đã làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo Lê Tuấn A đã ra đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Trương Quang L khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Dù giảm nhẹ nhưng cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo cải tạo thành người lương thiện, đồng thời đảm bảo được biện pháp răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]Về dân sự: Người bị hại chị Ngô Thị Diễm A và anh Đinh Quốc N đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường, nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Winner biển số 77L1-748.17 chiếc xe này là tài sản của bị cáo Lê Tuấn A, các bị cáo đã dùng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí: Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Tuấn A, Trương Quang L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn A phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Tuấn A 48 (bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2018.

- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 90; Điều 91; Điều 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trương Quang L phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trương Quang L 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018.

- Căn cứ: Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner, biển số 77L1- 748.17, số máy 10700578, số khung 26096Y045209, theo Biên bản giao nhận vật chứng, ngày 02 tháng 7 năm 2018 giữa Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai,

- Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Tuấn A và Trương Quang L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Bị cáo, Luật sư, Người đại diện hợp pháp có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2018/HSST ngày 12/07/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:99/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về