Bản án 03/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số 02/2019/HSST ngày 15 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/HSST-QĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Thị D – sinh năm 1983; Nơi ĐKTT và nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: nội trợ. Trình độ học vấn: 06/12. Chồng: Phan Hoàng A, sinh năm 1984. Con: có 3 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2011. Con ông Đặng Văn A, sinh năm 1938 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1945. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/10/2018 đến ngày 18/10/2018 được tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên toà)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Châu Thị Hồng P – sinh năm 1978; Địa chỉ: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

2. Chị Nguyễn Thị G – sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

3. Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1986; Địa chỉ: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

(Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 ngày 10/10/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện T bắt quả tang tại nhà Đặng Thị D, cư trú tại ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang đang có hành vi bán số đề, qua khám xét thu giữ những tang vật gồm: 06 (sáu) tờ giấy lịch có ghi nhiều số có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D; 02 (hai) tờ giấy tập học sinh có ghi nhiều số có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D; 01 (một) quyển vở học sinh hiệu Les’t go từng trang có ghi nhiều con số và có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D ở từng trang; 06 (sáu) cây bút bi màu xanh đã qua s ử dụng; 04 (bốn) cây bút bi màu đỏ đã qua sử dụng; 01 (một) cây bút bi màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc máy tính hiệu Casio Lc-403TV đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 plus màu trắng, đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 5.974.000đ (Năm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn đồng).

Qua kết quả điều tra, Đặng Thị D khai nhận thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số đề từ khoảng tháng 8/2018 đến ngày bị bắt quả tang, bán số đề dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền nam và miền bắc thông qua điện thoại sau đó ghi âm lại hoặc người mua trực tiếp đến nhà, không giao phơi cho những người mua, sau đó chụp ảnh phơi và dùng tài khoản mạng xã hội Zalo tên Hoàng An giao lại cho thầu qua tài khoản mạng xã hội Zalo tên Thu T và Mẫn N để hưởng phần trăm, hình thức bán, cách ăn thua và hưởng phần trăm cụ thể như sau:

- Bán đài Miền Nam: Số đầu, gọi là lô A (là 02 con số cuối của giải tám theo kết quả xổ số kiến thiết); số đuôi, gọi là lô B (là 02 số cuối của giải đặc biệt theo kết quả xổ số kiến thiết) hình thức thắng thua theo tỷ lệ 1/80 lần, tức là người chơi mua 1.000đ (một nghìn đồng) khi trúng thắng được 80.000đ (Tám mươi nghìn đồng) sau khi bán được và nộp lại phơi thì D được hưởng 15% (mười lăm phần trăm) trên tổng số tiền bán được; đối với bao lô (là 02 số cuối cùng của tất cả các dãy số theo kết quả sổ số kiến thiết, gồm 16 lô) hình thức bán theo tỷ lệ 1/15 lần, tức là nếu người chơi mua 1.000đ (Một nghìn đồng) thì phải trả 15.000đ (Mười lăm nghìn đồng), hình thức thắng thua theo tỷ lệ 1/80 lần, nếu người chơi mua một số bao lô 1.000đ (Một nghìn đồng), khi trúng thì thắng 80.000đ (Tám mươi nghìn đồng), sau khi bán được và nộp cho thầu thì D được hưởng 04% (bốn phần trăm) trên tổng số tiền bán được.

- Bán đài Miền Bắc (đài Hà Nội): Số đầu, gọi là lô A (là 02 con số trong 04 lô của giải bảy theo kết quả xổ số kiến thiết miền bắc) hình thức mua theo tỷ lệ 1/4 lần, tức là người chơi mua 1.000đ (Một nghìn đồng) mỗi số thì phải trả 4.000đ (bốn nghìn đồng), hình thức thắng thua theo tỷ lệ 1/80 lần, khi người chơi mua 1.000đ (một nghìn đồng) khi trúng thắng được 80.000đ (Tám mươi nghìn đồng), sau khi bán được và nộp lại phơi thì D được hưởng 15% (mười lăm phần trăm) trên tổng số tiền bán được; đối với bao lô (là 02 số cuối cùng của tất cả các dãy số theo kết quả xổ số kiến thiết, gồm 27 lô) hình thức bán theo tỷ lệ 1/22.5 lần, tức là nếu người chơi mua 1.000đ (Một nghìn đồng) thì phải trả 22.500đ (hai mươi hai nghìn năm trăm đồng), hình thức thắng thua theo tỷ lệ 1/80 lần nếu người chơi mua một số bao lô 1.000đ (Một nghìn đồng), khi trúng thì thắng 80.000đ (Tám mươi nghìn đồng), sau khi bán được và nộp cho thầu thì D được hưởng 2.2% (Hai phẩy hai phần trăm) trên tổng số tiền bán được.

Đặng Thị D thực hiện hành vi bán số đề cho những người chơi tại nhà được tổng cộng ba lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 08/10/2018 D bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Đồng Tháp, Cà Mau, Hà Nội gồm số đầu, số đuôi, bao lô cho những người chơi được tổng số tiền là 11.311.000đ (Mười một triệu ba trăm mười một nghìn đồng), đã nộp cho thầu với tài khoản Zalo tên Mẫn N là 3.465.000đ (Ba triệu bốn trăm sáu mươi lăm nghìn đồng), nộp cho thầu với tài khoản Zalo tên Thu T là 7.846.000đ (Bảy triệu tám trăm bốn mươi sáu nghìn đồng), D được hưởng phần trăm là 1.055.650đ (Một triệu không trăm năm mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi đồng); ngày 08/10/2018 người chơi trúng được số đầu 33 đài Cà Mau với số tiền 15.000đ x 80 lần = 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng), trúng số đầu 59 đài Đồng Tháp với số tiền 5.000đ x 80 lần = 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng); trúng bao lô các số 23, 48, 59, 66, 95 đài Đồng Tháp với số tiền 32.000đ x 80 lần = 2.560.000đ (Hai triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng); trúng bao lô các số 33, 48 đài Cà Mau với số tiền 3.000đ x 80 lần = 240.000đ (Hai trăm bốn mươi nghìn đồng); trúng bao lô số 30 đài Hà Nội với số tiền 3.000đ x 80 lần = 240.000đ (Hai trăm bốn mươi nghìn đồng), tổng số tiền người chơi trúng được trong ngày 08/10/2018 là 4.640.000đ (Bốn triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng). Tổng cộng số tiền Đặng Thị D thực hiện hành vi đánh bạc ngày 08/10/2018 là 15.951.000đ (Mười lăm triệu chín trăm năm mươi mốt nghìn đồng).

- Lần thứ hai: Ngày 09/10/2018 D bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Bạc Liêu và Hà Nội gồm số đầu, số đuôi, bao lô cho những người chơi được tổng số tiền là 11.745.000đ (Mười một triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), đã nộp cho thầu với tài khoản Zalo tên Mẫn Nguyễn là 3.438.000đ (Ba triệu bốn trăm ba mươi tám nghìn đồng), nộp cho thầu với tài khoản Zalo tên Thu Thủy là 8.307.000đ (Tám triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng), D được hưởng phần trăm là 1.103.550đ (Một triệu một trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi đồng); ngày 09/10/2018 người chơi trúng bao lô các số 12, 36 đài Bạc Liêu với số tiền 23.000đx 80 lần =  1.840.000đ (Một triệu tám trăm bốn mươi nghìn đồng); trúng số đầu số 45 đài Bạc Liêu với số tiền 5.000đ x 80 lần = 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), tổng số tiền người chơi trúng được trong ngày 09/10/2018 là 2.240.000đ (Hai triệu hai trăm bốn chục nghìn đồng). Tổng cộng số tiền Nguyễn Thị D thực hiện hành vi đánh bạc ngày 09/10/2018 là 13.985.000đ (Mười ba triệu chín trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

- Lần thứ ba: Ngày 10/10/2018 D bán số đề theo kết quả sổ số kiến thiết của các đài Cần Thơ và Sóc Trăng gồm số đầu, số đuôi, bao lô cho những người chơi đến thời điểm bị bắt quả tang được tổng số tiền là 7.681.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi mốt nghìn đồng), đã tổng hợp phơi đề chụp ảnh gửi đến tài khoản Zalo tên Mẫn Nguyễn số tiền ghi trên phơi là 3.970.000đ (Ba triệu chín trăm bảy mươi nghìn đồng), chụp ảnh gửi đến tài khoản Zalo tên Thu Thủy số tiền ghi trên phơi là 3.711.000đ (Ba triệu bảy trăm mười một nghìn đồng), phần trăm D được hưởng là 960.750đ (Chín trăm sáu mươi nghìn bảy trăm năm mươi đồng), nhưng hai tài khoản Zalo này chưa trích lại phần trăm cho D và chưa có kết quả xổ số kiến thiết thì bị bắt quả tang.

Đặng Thị D khai nhận, đã thực hiện đánh bạc với hình thức bán số đề để hưởng phần trăm từ khoảng ngày 30/8/2018 đến ngày bị bắt quả tang là 10 ngày, bình quân mỗi ngày D thu lợi trích phần trăm từ việc bán số đề với số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), tổng số tiền D được trích phần trăm từ ngày 30/8/2018 đến ngày 07/10/2018 là 2.100.000đ (Hai triệu một trăm nghìn đồng). Riêng ngày 08, 09, 10 năm 2018 bị cáo thu lợi bất chính với số tiền là 2.159.200đ (Hai triệu một trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng). Tổng số tiền bị cáo thu lợi bất chính được là 4.259.200đ (Bốn triệu hai trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng).

Những người có mua số đề do D bán gồm: Nguyễn Thị G Châu Thị Hồng P, Nguyễn Thị H; qua kết quả điều tra ngày 09/10/2018 Nguyễn Thị G có mua các con số lô A đài Bạc Liêu gồm số 52, 25, 12 với số tiền 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng), lô B đài Bạc Liêu các con số 52, 25, 12 với số tiền 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng), bao lô số 12 đài Bạc Liêu với số tiền 3.000đ x 15 lần = 45.000đ (Bốn mươi lăm nghìn đồng). Tổng cộng chị G mua của D là 145.000đ (Một trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), kết quả xổ số không trúng. Châu Thị Hồng P ngày 08/10/2018 có mua số đề lô A đài Đồng Tháp của bị cáo D gồm các số 24, 11, 19, 50 với số tiền 130.000đ (Một trăm ba mươi nghìn đồng), lô A đài Cà Mau các con số 19, 59 với số tiền 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng), mua bao lô đài Đồng Tháp các con số 24, 29 với số tiền 5.000đ x 15 lần = 75.000đ (Bảy mươi lăm nghìn đồng), mua bao lô đài Hà Nội các con số 64, 59, 33 với số tiền 125.000đ x 22,5 lần = 2.812.500đ (Hai triệu tám trăm mười hai nghìn năm trăm đồng). Tổng số tiền ngày 08/10/2018 P dùng để đánh bạc là 3.162.500đ (Ba triệu một trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm đ ồng), kết quả xổ số trong ngày không trúng giải; ngày 09/10/2019 Phương tiếp tục mua số đề của bị cáo D lô A đài Bạc Liêu các con số 10, 40, 67, 55 với số tiền 355.000đ (Ba trăm năm mươi lăm nghìn đồng), kết quả xổ số trong ngày không trúng giải. Nguyễn Thị H ngày 08/10/2018 có mua lô A số 49 đài Đồng Tháp 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), và mua lô A đài Cà Mau 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), tổng số tiền mua hai đài của bị cáo D là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), kết quả xổ số không trúng giải.

Đối với Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T theo lời khai của bị cáo D và những lưu giữ trong điện thoại của D là những người sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo Mẫn N và Thu T để nhận phơi đề và làm thầu, qua công tác điều tra xác minh không có căn cứ chứng minh Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T là người sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo.

Trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội giản đơn, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo cũng đã thể hiện sự thành khẩn, thật thà khai báo, tuy nhiên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hai lần trở lên.

Xử lý vật chứng: Đối với những vật chứng gồm 01 (một) quyển vở học sinh hiệu Les’t go từng trang có ghi nhiều con số và có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D ở từng trang; 06 (sáu) cây bút bi màu xanh đã qua s ử dụng; 04 (bốn) cây bút bi màu đỏ đã qua sử dụng; 01 (một) cây bút bi màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc máy tính hiệu Casio Lc-403TV đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 plus màu trắng, đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 5.974.000đ (năm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn đồng) đang được bảo quản tại kho vật chứng thuộc Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Kiên Giang theo Quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ-VKSTH ngày 14/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang.

Bản Cáo trạng số 03/2019/CT-VKS-TH ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Đặng Thị D về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như đã viện dẫn nêu trên. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điều 35; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Đặng Thị D hình phạt tiền từ 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) đến 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.974.000đ (Năm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn đồng) do bị cáo D thừa nhận là tiền do hành vi bán số đề mà có; là tang vật bắt quả tang trong ngày 10/10/2018.

Buộc bị cáo D nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền 4.259.200đ (Bốn triệu hai trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng) do bị cáo thu lợi bất chính mà có.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 plus màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc máy tính hiệu Casio Lc-403TV đã qua sử dụng; do đây là công cụ phương tiện mà bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) quyển vở học sinh hiệu Les’t go từng trang có ghi nhiều con số và có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D ở từng trang; 06 (sáu) cây bút bi màu xanh đã qua s ử dụng; 04 (bốn) cây bút bi màu đỏ đã qua sử dụng; 01 (một) cây bút bi màu đen đã qua sử dụng; do các vật chứng không có giá trị sử dụng.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát luận tội, bị cáo nhận tội, không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, kết luận điều tra, biên bản bắt quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Vào lúc 15 giờ 30 ngày 10/10/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện T bắt quả tang tại nhà bị cáo Đặng Thị D đang có hành vi bán số đề để hưởng chênh lệch phần trăm, các dạng số đề gồm số đầu, số đuôi, bao lô, hình thức thắng thua tỷ lệ 1/80 lần; theo kết quả xổ số kiến thiết các đài Miền Nam và số đầu, bao lô hình thức thắng thua tỷ lệ 1/80 lần theo kết quả xổ số kiết thiết đài Hà Nội; ngày 10/10/2018 D bán được cho những người chơi được tổng số tiền là 7.681.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi mốt nghìn đồng), bị cáo D chưa thu lợi bất chính.

Ngoài ra, trước đó bị cáo Đặng Thị D còn thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh số đề những lần khác để thu lợi bất chính, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 08/10/2018 D bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Đồng Tháp, Cà Mau, Hà Nội gồm số đầu, số đuôi, bao lô cho những người chơi được tổng số tiền là 11.311.000đ (Mười một triệu ba trăm mười một nghìn đồng), thu lợi bất chính 1.055.650đ (Một triệu không trăm năm mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi đồng), người chơi trúng được 4.640.000đ (bốn triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng), tổng số tiền D dùng để đánh bạc là 15.951.000đ (Mười lăm triệu chín trăm năm mươi mốt nghìn đồng).

- Lần thứ hai: Ngày 09/10/2018 D bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Bạc Liêu và Hà Nội gồm số đầu, số đuôi, bao lô cho những người chơi được tổng số tiền là 11.745.000đ (Mười một triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), thu lợi bất chính số tiền 1.103.550đ (Một triệu một trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi đồng), người chơi trúng được 2.240.000đ (Hai triệu hai trăm bốn chục nghìn đồng), tổng số tiền đánh bạc là 13.985.000đ (Mười ba triệu chín trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

Số tiền bị cáo Đặng Thị D thu lợi bất chính từ việc đánh bạc từ ngày 30/8/2018 đến ngày 10/10/2018 là 4.259.200đ (Bốn triệu hai trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Thị D thừa nhận đánh bạc bằng hình thức bán số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền nam và miền bắc thông qua điện thoại sau đó ghi âm lại hoặc người mua trực tiếp đến nhà để mua, bị cáo ghi số trên nhiều tờ giấy lịch hoặc tờ giấy tập học sinh; sau đó giao lại cho thầu qua tài khoản mạng xã hội Zalo tên Thu T và Mẫn N để hưởng phần trăm. Hành vi của bị cáo D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Đặng Thị D về tội “Đánh bạc” về tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm vào lĩnh vực trật tự cộng đồng, gây mất an ninh trật tự tại nơi xảy ra vụ án. Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người có đủ năng lực hành vi và nhận thức được đánh bạc là hành vi vi phạm pháp luật, bởi đây là hình thức đánh bạc ăn thua bằng tiền bị Nhà nước nghiêm cấm, là tệ nạn xã hội, và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình, kiệt quệ kinh tế và dẫn đến các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo là cố ý, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm là cần thiết, để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo D có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo dưới mức án đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là đủ nghiêm, đủ tính răn đe và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.974.000đ (Năm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn đồng) do bị cáo D thừa nhận là tiền do hành vi bán số đề mà có; là tang vật bắt quả tang trong ngày 10/10/2018.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 plus màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc máy tính hiệu Casio Lc-403TV đã qua sử dụng; do đây là công cụ phương tiện mà bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) quyển vở học sinh hiệu Les’t go từng trang có ghi nhiều con số và có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D ở từng trang; 06 (sáu) cây bút bi màu xanh đã qua s ử dụng; 04 (bốn) cây bút bi màu đỏ đã qua sử dụng; 01 (một) cây bút bi màu đen đã qua sử dụng; do các vật chứng không có giá trị sử dụng.

Đối với bị cáo Đặng Thị D khai nhận, bán số đề được khoảng hai tháng từ khoảng tháng 8/2018 đến khi bị bắt. Qua điều tra xác minh, không thu thập đủ chứng cứ để chứng minh các lần phạm tội bán số đề trước đó của bị cáo theo lời khai của bị cáo. Vì vậy, chưa có căn cứ để xử lý; là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T theo lời khai của bị cáo D là những người sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo Mẫn N và Thu T để nhận phơi đề và làm thầu. Qua công tác điều tra, xác minh không có căn cứ chứng minh Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T là người sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo Mẫn N và Thu T và không đủ chứng cứ chứng minh Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị T là người thầu số đề, vì vậy chưa có căn cứ xử lý; là phù hợp. Khi điều tra, xác minh đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với những người mua số đề của bị cáo D, qua xác minh chỉ xác định được Nguyễn Thị G, Châu Thị Hồng P, Nguyễn Thị H là những người mua số đề; qua điều tra xác minh G, P, H chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên Cơ quan Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người với số tiền 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đ ồng); là phù hợp.

Còn những người khác không xác định được nên cũng không có căn cứ xử lý. Đối với chồng bị cáo D là Phan Hoàng A không biết việc bị cáo D có bán số đề nên không có căn cứ xử lý, là phù hợp, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Đặng Thị D phải nộp lại số tiền 4.259.200đ (Bốn triệu hai trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng) do bị cáo D thu lợi bất chính mà có để sung vào công quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ngày 30/12/2016 qui định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thị D phạm tội: “Đánh bạc”.

Áp dụng Điều 35; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Thị D 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng)

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.974.000đ (Năm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn đồng).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 plus màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc máy tính hiệu Casio Lc-403TV đã qua sử dụng.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) quyển vở học sinh hiệu Les’t go từng trang có ghi nhiều con số và có chữ ký xác nhận của Đặng Thị D ở từng trang; 06 (sáu) cây bút bi màu xanh đã qua s ử dụng; 04 (bốn) cây bút bi màu đỏ đã qua sử dụng; 01 (một) cây bút bi màu đen đã qua sử dụng.

Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số 02/QĐ-VKSTH ngày 14/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang.

3. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Đặng Thị D phải nộp lại số tiền 4.259.200đ (Bốn triệu hai trăm năm mươi chín nghìn hai trăm đồng) do bị cáo D thu lợi bất chính mà có để sung vào công quỹ Nhà nước.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Thị D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về