Bản án 134/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 134/2019/HS-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 130/2019/TLST-HS ngày 17/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-HS ngày 25/10/2019 đối với bị cáo:

Hà Văn T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 1981 tại thành phố S, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Thái; giơi tinh : Nam; tôn giáo: Không; quôc tịch: Viêt Nam; con ông Hà Văn N và bà Lò Thị U; bị cáo có vợ là Vì Thị V và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27/5/2003, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã xóa án tích); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/8/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 50 phút ngày 02/8/2019, tổ công tác Công an xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang Hà Văn T cất giữ trái phép chất ma túy tại nhà bà Lò Thị U ở Bản T, xã C, thành phố S. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa cục, bột màu trắng (T tự giác lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra giao nộp và khai là Heroine cất giữ để sử dụng). Cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hà Văn T thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa các cục, bột màu trắng (tại vị trí giữa hai tấm đệm, T khai là Heroine cất giấu để sử dụng).

Ngày 02/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả:

- Cục bột màu trắng trong gói nilon màu xanh có khối lượng 0,12 gam. Lấy 0,07 gam (ký hiệu T1) làm mẫu giám định; còn lại 0,05 gam làm mẫu lưu kho (ký hiệu T2).

- Cục bột màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 2,08 gam. Lấy 0,6 gam (ký hiệu T3) làm mẫu giám định; còn lại 1,48 gam làm mẫu lưu kho (ký hiệu T4).

Tại Kết luận giám định số 1361 ngày 07/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu T1 và T3 đều là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,67 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,20 gam; loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Hà Văn T khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 09 giờ sáng ngày 02/8/2019, Hà Văn T đi bộ từ nhà tại Bản T, xã C, thành phố S ra đầu cầu bản T đón xe buýt đến khu vực bản L, phường C, thành phố S mua ma túy về sử dụng. T mua được của một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). T cất gói ma túy vào túi quần đang mặc rồi đón xe buýt về nhà. T chia gói ma túy thành 02 gói. T cất giấu 01 gói vào giữa hai tấm đệm đặt trên 01 hòm kim loại giữa hai giường ngủ trong nhà, còn 01 gói cất vào túi quần đang mặc. Khi T đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang.

Về nguồn gốc số ma túy, T khai mua của một người nam giới không biết họ tên, tuổi và địa chỉ. Do vậy, không có cơ sở để điều tra.

Bn cáo trạng số 133/CT-VKSTP ngày 17/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Hà Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Hà Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Hà Văn T từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong; mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Hà Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 02/8/2019. Gồm: 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu ký hiệu T2=0,05 gam; mẫu lưu ký hiệu T4=1,48 gam”.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiên. Do vậy, có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 02/8/2019, Hà Văn T đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 2,20 gam Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, năm 2003 đã bị kết án về tội phạm ma túy, đã đương nhiên xóa án tích. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 02 vỏ gói niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon, 02 mẫu lưu kho, xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt Hà Văn T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 02/8/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Hà Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 02/8/2019. Gồm: 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu ký hiệu T2=0,05 gam; mẫu lưu ký hiệu T4=1,48 gam”. Mặt sau phong bì trên giấy dán niêm phong có 01 hình dấu tròn đỏ, 01 dấu vuông xanh của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La và 06 chữ ký, 06 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hà Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:134/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về