Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 16/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 11/10/2018, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2018/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2018 về “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2018/QĐST-HNGĐ ngày 17/9/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Đức K, sinh năm 1972; Nơi đăng ký HKTT: thôn C1, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Nơi công tác: Đoàn 79, Binh đoàn 15 thuộc làng H, xã K, huyện L, tỉnh Quảng Bình (Có đơn xin giải quyết vắng mặt);

- Bị đơn: Chị Lê Thị V, sinh năm 1973, Nơi đăng ký HKTT: thôn C1, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở hiện nay: thôn L, xã IK, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, nơi công tác: trường tiểu học T, xã ID huyện Đ, Gia Lai (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 26/6/2018, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn, anh Lê Đức K trình bày:

Trước đây, anh và chị Lê Thị V là vợ chồng, đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Anh và chị V có 02 con chung gồm Lê Thị Thủy B, sinh ngày 27/8/2004 và Lê Thị Xuân T, sinh ngày 01/01/2008. Chị V là người được giao nuôi cả hai con. Anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mức 1.500.000 đồng/con/tháng tính từ tháng 02 năm 2017 cho đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động, tự lập được.

Kể từ tháng 02 năm 2017, anh đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đúng theo thỏa thuận. Hiện nay, do điều kiện tài chính khó khăn, anh đề nghị Tòa án giảm mức cấp dưỡng nuôi con từ 1.500.000 đồng/con/tháng xuống còn 1.000.000 đồng/con/tháng.

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn, chị Lê Thị V trình bày:

Trước đây, chị và anh Lê Đức K là vợ chồng, đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Khi ly hôn, chị là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con. Anh K có nghĩa cấp dưỡng nuôi con mức 1.500.000 đồng/con/tháng, thời gian cấp dưỡng từ tháng 02 năm 2017 cho đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động, tự lập được. Anh K đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến tháng 8/2018. Nay anh K yêu cầu giảm mức cấp dưỡng nuôi con từ 1.500.000 đồng/con/tháng xuống còn 1.000.000 đồng/con/tháng, chị không đồng ý.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 110, 116, 117, 118 của Luật Hôn nhân và gia đình: xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc anh K chịu 300.000đ án phí về tranh chấp cấp dưỡng để sung quỹ nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Lê Đức K khởi kiện chị Lê Thị V yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con. Anh K là người có quyền khởi kiện. Yêu cầu khởi kiện của anh K thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 5 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

[2] Anh Lê Đức K có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh K.

[3] Anh Lê Đức K và chị Lê Thị V trước đây là vợ chồng, có hai con chung là Lê Thị Thủy B, sinh ngày 27/8/2004 và Lê Thị Xuân T, sinh ngày 01/01/2008. Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai thì chị V là người trực tiếp nuôi cả 02 con. Anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mức 1.500.000 đồng/con/tháng tính từ tháng 02 năm 2017 cho đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động, tự lập được. Anh K đã cấp dưỡng nuôi 02 con đến tháng 8/2018.

Anh K yêu cầu giảm mức cấp dưỡng từ 1.500.000 đồng/con/tháng xuống mức 1.000.000 đồng/con/tháng với lý do như sau: Hiện nay anh được điều động đi công tác xa ở xã miền núi của tỉnh Quảng Bình nên tăng chi phí sinh hoạt cá nhân của bản thân; Tôi còn phải nuôi dưỡng mẹ già 90 tuổi; bản thân tôi mới lập gia đình nên phát sinh thêm nhiều chi phí; mức thu nhập của anh (theo anh bình quân hàng tháng là 14.000.000 đồng/tháng) không đảm bảo cấp dưỡng nuôi con theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận số 06/2017/QĐST- HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ.

Chị V không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh K. Xét thấy, việc anh K và chị V thỏa thuận mức cấp dưỡng nuôi con 1.500.000đồng/con/tháng hoàn toàn tự nguyện và không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên được Tòa án nhân dân huyện Đ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận này. Anh K đã thi hành án cấp dưỡng nuôi con đến tháng 8/2018.

Anh K không cung cấp được chứng cứ về giảm thu nhập, về khó khăn tài chính để chứng minh mình không có khả năng cấp dưỡng nuôi con theo Quyết định của Tòa án.

Căn cứ mức thu nhập của anh K, mức thu nhập của chị V, chi phí hợp lý để nuôi 02 con của anh K và chị V, xét thấy mức cấp dưỡng nuôi con 1.500.000đồng/ con/tháng theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ là phù hợp. Do đó căn cứ các Điều 110, 116, 117, 118 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh K.

[4] Về án phí: Buộc anh K chịu toàn bộ án phí dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 110, 116, 117, 118 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Lê Đức K về việc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 06/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

2. Về án phí: Buộc anh Lê Đức K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch về tranh chấp cấp dưỡng để sung vào công quỹ Nhà nước, được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002950 ngày 26/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Anh K đã nộp đủ tiền án phí.

3. Các vấn đề khác: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Thời hạn kháng cáo của đương sự có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, của đương sự vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:16/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Cơ - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về