Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 21/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Ngô Văn V, sinh ngày 09/12/2003; tại xã L, thị xã Duyên H, tỉnh Trà V; Nơi cư trú: ấp Giồng T, xã Long T, thị xã Duyên H, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn Ph, sinh năm 1974 và bà Bùi Thị N, sinh năm 1981; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/5/2019 cho đến nay, bị cáo tại ngoại (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

1/ Ông Ngô Văn P, sinh năm 1974 (Cha bị cáo) (có mặt).

2/ Bà Bùi Thị N, sinh năm 1981 (Mẹ bị cáo) (có mặt).

Cùng nơi cư trú: ấp Giồng T, xã L , thị xã D, tỉnh T.

- Người bào chữa cho bị cáo Ngô Văn V: Ông Giang Minh C, Luật sư văn phòng luật sư Giang Minh Ch, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Trà Vinh bào chữa cho bị cáo theo chỉ định và ông Diệp Minh T - Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh T (có mặt).

- Bị hại: Cháu Tăng Thanh H, sinh ngày 23/3/2009.

Nơi cư trú: ấp Giồng T, xã L, thị xã D, tỉnh T (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Ông Tăng Văn N, sinh năm 1976 (cha bị hại).

2/ Bà Lê Thị U, sinh năm 1979 (mẹ bị hại) (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: ấp Giồng T, xã L, thị xã D, tỉnh T.

Người đại diện theo ủy quyền cho bà Lê Thị U tham gia tố tụng: Ông Tăng Văn N, sinh năm 1976, theo văn bản ủy quyền ngày 14 tháng 8 năm 2019.

Nơi cư trú: Giồng T, xã L, thị xã D, tỉnh T (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1950.

Nơi cư trú: ấp G, xã L, thị xã D, tỉnh T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia đình bị cáo Ngô Văn V và gia đình bị hại cháu Ngô Thanh H có quan hệ bà con với nhau (bà ngoại cháu H với bà nội của bị cáo Ngô Văn V có quan hệ là chị em bạn dì ruột, cha mẹ của bị cáo V gọi cha mẹ bị hại cháu H là anh, chị) hai nhà cách nhau khoảng 150 mét. Hàng ngày cháu H sống với mẹ và bà ngoại, cha của cháu H đi nuôi tôm mướn khoảng 01 tuần mới về nhà. Bị cáo Ngô Văn V học đến lớp 8 thì nghĩ học ở nhà phụ giúp gia đình, còn cháu H đang học lớp 4 tại Trường Tiểu học K, phường, thị xã D, tỉnh T. Khoảng đầu tháng 10 năm 2018 vào lúc buổi trưa cháu H đi bộ từ nhà đến chòi tôm của cha (anh Tăng Văn N) để chơi, lúc này bị cáo V đang ở nhà một mình nhìn thấy cháu H đi qua, bị cáo nảy sinh ý định giao cấu với em H và bị cáo nhớ đến vào khoảng trước tháng 6 năm 2018, bị cáo sử dụng điện thoại di động xem phim trên mạng Internet cảnh nam nữ thành niên quan hệ tình dục (giao cấu với nhau) nên dẫn đến bị cáo V ham muốn tình dục, tò mò muốn làm theo nên thấy cháu H đi có một mình bị cáo V đang ở nhà một mình bị cáo liền đi ra nắm tay kéo cháu H vô nhà, đồng thời dùng lời dọa “Mày không vô tao đánh mày chết”. Nghe vậy, cháu H đi theo bị cáo vào bên trong nhà, bị cáo dẫn cháu H đi vào trong buồng kêu cháu H nằm lên giường ngủ bằng gỗ rồi dùng hai tay kéo quần của cháu H ra khỏi hai chân, tiếp đến bị cáo tự cởi quần ra khỏi hai chân, rồi nằm úp người đè lên người cháu H, xong bị cáo V dùng tay trái cầm dương vật cương cứng đưa vào âm hộ của cháu H và nẩy người lên xuống để đưa dương vật vào bên trong âm đạo của cháu H khoảng hai phút thì xuất tinh trong âm đạo của cháu H, rồi bị cáo tự mặc quần vào và kêu cháu H tự mặc quần vào, đồng thời căn dặn cháu H “Đừng có nói cho ai biết” sau đó cháu H tự đi đến chòi tôm của cha chơi, bị cáo tiếp tục sinh hoạt bình thường. Vào khoảng 18 giờ 30 phút đầu tháng 01 năm 2019 chị Lê Thị U (mẹ ruột của cháu H) khi giặt đồ cho gia đình, chị U phát hiện quần của con gái có dính máu nên gạn hỏi thì cháu H kể lại sự việc như trên, sau đó bà ngoại của cháu H có đến nhà của bị cáo V gặp cha, mẹ bị cáo trình bày sự việc cháu H bị bị cáo V hiếp dâm nên chị U trình báo cơ quan Công an.

Tại cơ quan điều tra bị cáo V còn thừa nhận toàn bộ hành vi giao cấu cháu H như nêu trên. Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận trước đó khoảng thời gian đầu tháng 6 năm 2018 đến đầu tháng 10 năm 2018, bị cáo Vđã thực hiện hành vi giao cấu với cháu Tăng Thanh H tổng cộng 07 lần, về địa điểm và cách thực hiện hành vi giao cấu như lần thực hiện nêu trên. Tóm lại, bị cáo V đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu H tất cả 8 lần đều thỏa mãn và xuất tinh vào bên trong âm đạo của cháu H.

Theo Kết luận giám định pháp y về tình dục số 02/TD ngày 18 tháng 01 năm 2019 của Trung tâm pháp y Sở Y tế T kết luận: “Các dấu vết thu thập được tại thời điểm giám định (ngày 18/01/2019) của Tăng Thanh H: Màng trinh dãn khoảng 2 cm; màng trinh rách cũ ở hai vị trí (1 giờ và 8 giờ (rách chưa đến chân màng trinh); Bộ phận sinh dục không bị tổn hại”.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS-P1 ngày 23/7/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T đã quyết định truy tố Ngô Văn V về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Ngô Văn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện tổng cộng 08 lần hiếp dâm cháu Tăng Thanh H như bản cáo trạng đã nêu và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra.

Ý kiến của người đại diện bị hại anh Tăng Văn N đồng thời đại diện ủy quyền của bà Lê Thị U mẹ của cháu H: Có đơn xin xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, về trách nhiệm dân sự không có yêu cầu bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T: Sau khi phân tích các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả đối chất, tranh tụng công khai tại phiên tòa cũng như các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vị kiểm sát viên quyết định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo Ngô Văn V phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 142; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xét xử bị cáo từ 08 đến 10 năm tù. Về trách nhiệm dân sự do bị hại không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Ngoài ra còn đề nghị án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Ngô Văn V: Luật sư Giang Minh C cho rằng về trách nhiệm hình sự Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là không bàn cải, vì việc truy tố đó đúng với lời khai của bị cáo, bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Nhưng bị cáo là người thành khẩn khai báo, chính bị cáo tự khai ra những lần phạm tội trước đó của bị cáo, về nhận thức của bị cáo yếu kém do trình độ văn hoa yếu kém, bị cáo phạm tội lần đầu, gia đình bị cáo có nhiều người thân tham gia và có công cách mạng, gia đình của bị hại đã có đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo còn bị ảnh hưởng phim ảnh, sự quản lý giáo dục lõng lẽo của người lớn, gia đình bị cáo và bị hại điều là thành phần nghèo chỉ chăm lo làm ăn mà thiếu quan tâm đến con cái. Viện kiểm sát đề nghị xét xử bị cáo từ 08 đến 10 năm là nặng vì bị cáo phạm tội khi bị cáo từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo hình phạt thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.

Trợ giúp viên pháp lý Diệp Minh T: Về cơ bản thống nhất ý kiến của Luật sư Giang Minh C đã trình bày, tại phiên tòa hôm nay bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như Luật sư trình bày nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp nhất đề nghị của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng bị cáo Ngô Văn V mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Do ảnh hưởng hình ảnh phim sex trên mạng, bị cáo Ngô Văn V đã xem trên điện thoại của bị cáo dẫn đến sự ham muốn tình dục nên vào tháng 10/2018 bị cáo thấy bị hại cháu Tăng Thanh H sinh ngày 23/3/2009 đi bộ ngang qua nhà của bị cáo đi ra lộ nắm tay cháu H kéo vô nhà của bị cáo và dọa cháu H nếu không đi vô thì bị cáo sẽ đánh cháu H khi cháu H vô nhà thì bị cáo kéo cháu H vào trong buồng ngủ đưa cháu H nằm ngữa trên giường ngủ, bị cáo dùng tay kéo quần của cháu H ra khỏi hai chân rồi bị cáo cỏi quần của bị cáo ra và đè lên người cháu H dùng dương vật đưa vào trong âm đạo của cháu H để quan hệ tình dục với cháu được khoảng 02 phút thì bị cáo xuất tinh trong âm đạo của cháu H, bị cáo mặc quần áo vô và bị cáo kêu cháu H mặc quần của cháu H vô, do nghi ngờ cháu H bị xâm hại tình dục nên chị Lê Thị U là mẹ cháu H rặng hỏi thì cháu H kể lại toàn bộ sự việc bị bị cáo V thực hiện hành vi hiếp dâm, sự việc được trình báo với Công an. Tại cơ quan điều tra bị cáo V đã khai nhận sự việc và hành vi của bị cáo như đã miêu tả trên, ngoài ra bị cáo còn tự nguyên khai nhận từ đầu tháng 6/2018 đến tháng 10/2018 bị cáo đã thực hiện giao cấu với cháu H tổng cộng 07 lần (BL 109, 110, 112, 115, 119, 121, 123, 129, 133, 169, 173, 174, 178) lời khai của bị cáo ở nhiều lần, nhiều thời điểm khác nhau nhưng đã khớp với nhau và những lời khai của bị cáo trong các bút lục liệt kê trên điều có người giám hộ của bị cáo chứng kiến ký tên xác nhận.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng khai nhận nội dung hành vi của bị cáo đã thực hiện với cháu H đúng như các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Bà Bùi Thị N là mẹ bị cáo làm giám hộ cho bị cáo xác nhận tại phiên tòa hôm nay là lời khai của bị cáo là tự nguyện tự do khai và bà thừa nhận lời khai của bị cáo hôm nay. Sự thừa nhận hành vi của bị cáo theo ý chí tự do tự nguyên của bị cáo, lời khai đó phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với trình bày của chị U (mẹ của bị hại). Phù hợp với kết luận giám định pháp y về tình dục số 02/TD ngày 18/01/2019 của trung tâm giám định pháp y Sở Y tế T về tình trạng màng trinh của cháu H đã bị rách dãn.

Xét sau khi vụ án xảy ra cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật về điều tra truy tố với loại tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đối với người bị hại dưới 10 tuổi đúng theo quy định của pháp luật nên việc xây dựng hồ sơ vụ án được coi là hợp pháp. Như vậy, với những chứng cứ, tài liệu điều tra đã phân tích trên, đủ cơ sở chứng minh rằng bị cáo đã phạm tội hiếp dâm cháu H trong thời điểm cháu chưa được 10 tuổi như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T truy tố bị cáo là có cơ sở đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo chưa đủ 18 tuổi nhưng qua chứng cứ nêu trên cho thấy bị cáo thực hiện hành vi cố ý theo ý chí của bị cáo, sự mong muốn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo đã có chủ ý trước, thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần. Hành vi của bị cáo không những xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm danh dự cho bị hại mà còn làm tổn thương đến tâm lý của bị hại, tạo dư luận xã hội không tốt ở đại phương, hoang mang lo sợ tình trạng xâm hại tình dục đối với những người có con em là cháu gái nên cần phải xử lý bị cáo bằng chế tài hình sự cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo đã có thái độ thành khẩn, khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, nhân thân bị cáo tốt, bị cáo có ông ngoại là người có công với nước được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, gia đình bị hại tự nguyện không yêu cầu gia đình bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự và bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên được xem đây là các tình tiết giảm nhẹ và áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi pham tội cho bị cáo để thực hiện chính sách hình sự của pháp luật Việt Nam.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Do gia đình bị hại không yêu cầu, xét đây là sự tự nguyện của bên bị hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra bồi thường trách nhiệm dân sự.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên phân tích hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo, hậu quả và tác hại của hành vi, tính chất mức độ hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ là phù hợp với tính khách quan của vụ án đúng với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên được chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Văn V phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” Căn cứ: điểm c khoản 3 Điều 142; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn V 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Do ông Tăng Văn N là người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Văn V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, người đại diện cho bị cáo, bị hại, người đại diện bị hại, người bào chữa cho bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày án sơ thẩm đã tuyên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1924
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 21/2019/HS-ST

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về