Bản án 247/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 247/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 461/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và chia tài sản chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 345/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1987 (xin vắng mặt) HKTT: Ấp 4, xã TH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau

Chổ ở: Ấp 10A, xã TH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Trần Khánh D, sinh năm 1986 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 10A, xã TH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 08/6/2018, nguyên đơn chị Bùi Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Vào năm 2012, chị và anh Trần Khánh D chung sống vợ chồng với nhau, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau. Nguyên nhân mâu thuẫn là trong thời gian chung sống vợ chồng thường cự cải do bất đồng quan điểm, anh D thường xuyên rượu chè, không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, gia đình đã nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Nhận thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nay chị yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Trần Minh K, sinh ngày 31/12/2012 và Trần Đăng K, sinh ngày 06/01/2018. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi 02 con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Vào năm 2016, vợ chồng có mua 01 chiếc xe Vision biển số 69N1-097.65 do anh Trần Khánh D đứng tên giấy tờ xe, mua với giá20.000.000 đồng. Chiếc xe hiện nay do chị đang quản lý, sử dụng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nhận xe, chị đồng ý hoàn lại cho anh D ½ giá trị chiếc xe là10.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe Wave Alpha, biển số 69N1-038.61 do cha mẹ là ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị M mua cho chị vào năm 2010 trước khi chị kết hôn với anh D. Mua xe với giá 17.000.000 đồng, do chị đứng tên giấy tờ xe. Chiếc xe này hiện do anh D quản lý, sử dụng. Giá trị xe thời điểm hiện nay là 10.000.000 đồng. Chị yêu cầu Tòa án công nhận chiếc xe Wave Alpha là tài sản riêng của chị và buộc anh D phải hoàn trả chiếc xe trên cho chị.

Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Trần Khánh D: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ để hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử nhưng anh D vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Trần Khánh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không lý do; Chị Bùi Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D, chị H theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị H và anh Trần Khánh D tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh D được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp và bảo vệ.

Quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định không còn tình cảm yêu thương anh D, hôn nhân không còn hạnh phúc. Đồng thời, chị H thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh D và khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn với anh D.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng, chị H và anh D có 02người con chung tên Trần Minh K, sinh ngày 31/12/2012 và Trần Đăng K, sinh ngày 06/01/2018. Hiện nay các con chung đang sống cùng với chị H. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi 02 con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theoquy định pháp luật.

Thấy rằng, từ khi chị H và anh D ly thân cho đến nay thì các con chung vẫn do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với cháu Trần Đăng K đến nay thì chưa tròn 01 tuổi và để đảm bảo cho các con chung được ổn định về cuộc sống và sự phát triển về mặt tâm sinh lý sau này. Do đó, cần giao các con chung cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Anh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Xét về cấp dưỡng nuôi con: Căn cứ vào khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Do đó, chấp nhận yêu cầu của chị H buộc anh D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện, chị H cho rằng vào năm 2016, vợ chồng có mua 01 chiếc xe Vision biển số 69N1-097.65 do anh Trần Khánh D đứng tên giấy tờ xe, mua với giá 20.000.000 đồng. Chiếc xe hiện nay do chị đang quản lý, sử dụng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nhận xe, chị đồng ý hoàn lại cho anh D ½ giá trị chiếc xe là 10.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe Wave Alpha, biển số 69N1-038.61 là do cha mẹ là ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị M mua cho chị vào năm 2010 trước khi chị kết hôn với anh D. Mua xe với giá 17.000.000 đồng, do chị đứng tên giấy tờ xe. Chiếc xe này hiện do anh D quản lý, sử dụng. Giá trị xe thời điểm hiên nay là 10.000.000 đồng. Chị yêu cầu Tòa án công nhận chiếc xe Wave Alpha là tài sản riêng của chị và buộc anh D phải hoàn trả chiếc xe trên cho chị.

Ngày 23/7/2018 chị Hằng có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung, vợ chồng tự thỏa thuận về chia tài sản chung nếu không thỏa thuận được sẽ khởi kiện thành một vụ kiện khác. Xét thấy, việc chị H rút yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận. Do đó, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản chung của chị H.

[5] Về nợ chung: Chị H xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh Dphải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 107 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị H được ly hôn với anh Trần Khánh D.

2. Về con chung: Giao 02 người con chung tên Trần Minh K, sinh ngày 31/12/2012 và Trần Đăng K, sinh ngày 06/01/2018 cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Buộc anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung, mỗi người con là695.000 đồng/tháng (1.390.000 đồng/tháng/02 người con), kể từ ngày 27/9/2018cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Đối với khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, kể từ ngày chị H có đơn yêu cầu thi hành án, anh D còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản chung.

4. Về nợ chung: Chị H xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí:

- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 đồng. Ngày 28/6/2018 chị H đã dự nộp 600.000 đồng theo biên lai số 0008357 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, được chuyển thu đối trừ. ChịH được nhận lại 300.000 đồng.

- Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh D phải chịu 300.000 đồng (chưa nộp).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 247/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản chung

Số hiệu:247/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về