Bản án 25/2019/HSST ngày 31/12/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2019/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS, ngày 16/12/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; Nơi đăng ký HKTT: Thôn 2, Vân T, xã Thượng H, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1942, con bà Đinh Thị T, sinh năm 1944. Gia đình có 6 anh em, bị cáo là con thứ sáu; Bị cáo có chồng là Nguyễn Bá H, sinh năm 1975, có 02 con (lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2019 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

H làm chủ quán cắt tóc gội đầu tẩm quất mang tên quán “Ngọc H” H có thuê các nhân viên gồm Nguyễn Thị Quỳnh N, Nguyễn Thị G, Phạm Thị N, giữa H và nhân viên thỏa thuận nếu có khách đến tẩm quất thì thu của khách 100.000đ/mỗi khách, H được 50.000đ nhân viên được 50.000đ, nếu có khách có nhu cầu mua dâm thì thu của khách 400.000đ trong đó tiền trả cho nhân viên 300.000đ, H được 100.000đ, khi H ở nhà sẽ thu trực tiếp, khi H không có nhà thì nhân viên thu tiền rồi về đưa lại cho H.

Khong 21 giờ ngày 28/8/2019 H, G, N, N đang ở quán thì có hai khách đến mua dâm gồm Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Văn H, lúc này H đi ra ngoài mua phở cho con nên có dặn lại các nhân viên “trông nhà cho chị, chị em bảo nhau” ý là có khách mua dâm vẫn làm bình thường, khi H và Tuấn A vào trong quán gặp N và G, H nói “ cho anh hai vé” H đưa số tiền 800.000đ cho N, nhưng N chỉ cầm 400.000đ và hiểu nhau tiền mua dâm cho H trả và đưa lại Tuấn A 400.000đ để Tuấn A đưa cho gái bán dâm, sau đó H và N lên phòng tại gác xép của quán, còn Tuấn A và G đi ra phòng phía sau của quán để thực hiện hành vi mua bán dâm, khoảng 05 phút sau khi đi ra khỏi quán, H đi về quán thấy N nói với H là N và G đang bán dâm cho khách. Khi vào phòng H có đưa cho N 100.000đ và nói “em phục vụ nhiệt tình vào” sau đó N và H thực hiện hành vi mua bán dâm, còn Tuấn A đưa G 400.000đ rồi cả hai thực hiện hành vi mua bán dâm, khi quan hệ tình dục H và Tuấn A có đeo bao cao su, quan hệ tình dục xong G tháo bao cao su của Tuấn A vứt vào bồn cầu, đến 21 giờ 40 phút cùng ngày Đội cảnh sát trật tự công an thị xã Từ Sơn tiến hành kiểm tra và bắt quả tang thu giữ tang vật gồm: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su và 900.000đ.

Với nội dung trên, tại Bản cáo trạng số: 207/Ctr-VKS ngày 28//11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh truy tố Nguyễn Thị H về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của BLHS.

Tại phiên tòa Nguyễn Thị H khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất của vụ án, phân tích, đánh giá các chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”. Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1,2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị H từ tháng 13 đến 15 tháng tù. Miễn phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 47 BLHS

Tịch thu têu hủy 01 báo cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 900.000đ là tiền mua bán dâm.

Trong phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội, không tham gia tranh luận với Kiểm sát viên.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo miễn phạt tiền vì vợ chồng bị cáo đang ở chung cùng bố mẹ chồng, bố thì bị nhiễm chất độc, mẹ bị bệnh, bị cáo phải chăm sóc, nuôi dưỡng, ngoài ra chồng bị cáo mới đi viện, do vậy điều kiện kinh tế rất khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn phù hợp với thời gian, địa điểm và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận khoảng 21 giờ ngày 28/8/2019, tại quán cắt tóc gội đầu tẩm quất Ngọc H tại thôn Doi S, xã Phù C, thị xã Từ Sơn do Nguyễn Thị H làm chủ, H có hành vi chứa chấp 2 đôi nam nữ mua bán dâm tại gác xép có N và H, tại phòng phía sau của quán có Tuấn A và G đang mua bán dâm với mục đích để thu lời bất chính, thì bị bắt quả tang. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm” vi phạm vào khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, bản sắc, nếp sống văn hóa mới của dân tộc và là nguy cơ lây truyền những căn bệnh nguy hiểm. Biết vậy, nhưng chỉ vì động cơ trục lợi, bị cáo vẫn lao vào con đường phạm tội để rồi phải đứng trước phiên tòa hôm nay chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và đảm bảo được việc răn đe, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trong xã hội.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, bị cáo có bố chồng là ông Nguyễn Bá H là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, bị cáo có mẹ chồng là người khuyết tật, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ được qui đinh tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vậy cần áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

Liên quan đến vụ án còn có Nguyễn Thị G, Nguyễn Thị Quỳnh N có hành vi bán dâm, Công an thị xã Từ Sơn đã ra quyết định xử lý hành chính với hình thức phạt tiền, xét thấy việc xử lý hành chính như trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đi với Nguyễn Văn H, Nguyễn Tuấn A có hành vi mua dâm, sau khi bị bắt đưa về trụ sở Công an thị xã Từ Sơn, lợi dụng sơ hở hai đối tượng đã bỏ trốn, cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ tại công an xã Văn M, huyện Yên Phong và công an xã Tân Tiến, huyện Yên Dũng là nơi hai đối tượng khai nhận cư trú, vậy kiến nghị cơ quan điều tra làm rõ và xử lý sau.

N có hành vi thỏa thuận mua bán dâm với H, tuy nhiên N chưa bán dâm nên chỉ bị nhắc nhở giáo dục.

Bà Nguyễn Thị C đã cho H thuê nhà, quá trình xác minh bà C không biết H dùng nhà thuê để mua bán dâm nên không đề cập xử lý đối với bà C.

Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa bị cáo trình bày có hoàn cảnh khó khăn, con còn nhỏ, bản thân phải phụng dưỡng bố mẹ già, khuyết tật, gia đình bị cáo có đơn xin miễn phạt bổ sung, có xác nhận của chính quyền địa phương. Hội đồng xét xử thấy điều kiện về kinh tế của bị cáo là khó khăn do vậy cần miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Vật chứng vụ án: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su là vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy, số tiền 900.000đ là tiền mua bán dâm cần tịch thu sung công quĩ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản khoản 2 Điều 106; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt: Nguyễn Thị H 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 29/8/2019.

Tm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 31/12/2019 để đảm bảo thi hành án.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su.

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước 900.000đ là tiền mua bán dâm. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST Bcáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

402
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 31/12/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về