Bản án 36/2017/DSST ngày 20/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 36/2017/DSST NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 20 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Hớn Quản xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Dân sự thụ lý số 27/2017/TLST- DS ngày 13 tháng 4 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐXX- ST ngày 14/8/2017, Quyết định hoãn phiên toà số 28/QĐST-HPT ngày 31/8/217 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V- Địa chỉ: số 2, L, quận B, H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc K – Chủ tịch hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Khánh T – Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V-  Chi nhánh Thị xã B, tỉnh Bình Phước, Theo quyết định số 510/QĐ-HĐTV-PC ngày 19/6/2014 của chủ tịch Hội đồng thành viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Khánh T: Ông Đinh Hồng L – Chức vụ: Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, Chi nhánh Thị xã B, tỉnh Bình Phước (có mặt).

Bị đơn: Ông Đỗ Minh T, sinh năm 1979 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 1, ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Khuất Thị H, sinh năm 1977 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Tổ 1, ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Đinh Hồng L trình bày:

Vào ngày 17/9/2014 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, đại diện là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V Chi nhánh Thị xã B, tỉnh tỉnh Bình Phước (Sau đây gọi là Ngân hàng nông nghiệp B) ký hợp đồng tín dụng số 5603 LAV201405864 tại phòng giao dịch A cho hộ gia đình ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H vay số tiền 150.000.000đ, thời hạn vay 12 tháng kể từ ngày 17 tháng 9 năm 2014, lãi suất là 10,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, mục đích vay vốn là chăn nuôi bò. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 17/9/2014 thì tài sản thế chấp cho Ngân hàng là quyền sử dụng 210,8m2 đất có giấy chứng nhận số AN 985097 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 19 tháng 12 năm 2008 đứng tên Đỗ Minh T và Khuất Thị H.

Trong báo cáo thẩm định ngày 17/9/2017 ghi nhận ông T, bà H có nghĩa vụ trả lãi 06 tháng một lần. Ông T, bà H đã đóng lãi đến ngày 19/3/2015. Đến ngày 17 tháng 9 năm 2015 hợp đồng tín dụng trên đã đến hạn trả nhưng ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H không thanh toán cho Ngân hàng nông nghiệp B số tiền gốc đã vay 150.000.000đ và tiền lãi theo hợp đồng. Vì vậy, ngày 27/3/2017 Ngân hàng nông nghiệp B khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H trả số tiền nợ gốc là 150.000.000đ, tiền lãi trong hạn từ ngày 20/3/2015 đến ngày 17/9/2015 là 7.918.750đ, tiền lãi quá hạn từ ngày 18/9/2015 đến ngày 20/9/2017 là 48.084.800đ. Ngoài ra, Ngân hàng yêu cầu ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H tiếp tục chịu tiền lãi đối với khoản tiền nợ gốc kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm cho đến khi thanh toán hết nợ theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng.

Bị đơn ông Đỗ Minh T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Khuất Thị H:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H đã tiến hành gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án và Giấy triệu tập đương sự qua đường bưu điện cho ông T và bà H nhưng hai đương sự trên không đến Toà án làm việc. Ngày 24 tháng 5 năm 2017 Toà án đã tiến hành xác minh và được chính quyền địa phương cung cấp thông tin là ông T và bà H còn cư trú tại địa phương, nhưng hai đương sự đi làm công nhân nên không thường xuyên ở nhà. Do không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho ông T, bà H nên Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, đến nay, ông T, bà H vẫn không đến Toà án làm việc và không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp B.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát phát biểu như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án từ khi, nhận đơn, thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử mở phiên toà. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Kiến nghị: Không.

Về nội dung vụ án: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết quả xét xử tại toà thể hiện ông T bà H ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân hàng nông nghiệp B số tiền 150.000.000đ với mục đích chăn nuôi bò. Quá trình thực hiện hợp đồng ông T bà H không thực hiện nghãi vụ trả lãi đầy đủ, hết hạn hợp đồng cũng không trả cả nợ gốc và tiền lãi. Do vậy, ông T bà H đã vi phạm hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả tiền gốc và lãi theo yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ kiện Tranh chấp hợp đồng tín dụng do nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, đại diện là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V Chi nhánh thị xã B, Bình Phước khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Minh T và vợ là bà Khuất Thị H trả số tiền nợ gốc là 150.000.000đ và tiền lãi theo hợp đồng tín dụng số 5603 LAV201405864. Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Đỗ Minh T, bà Khuất Thị H theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 31/8/2017 Tòa án nhân dân huyện H đã mở phiên toà lần thứ nhất, ông T và bà H vắng mặt tại phiên tòa. Tại phiên toà hôm nay ông T, bà H vẫn không tham gia nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông T và bà H.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại Đơn khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp B chỉ yêu cầu Đỗ Minh T trả nợ nhưng tại Bản tự khai ngày 13/4/2017 và tại phiên toà Ngân hàng nông nghiệp B yêu cầu bà Khuất Thị H cùng với ông T trả khoản nợ trên. Căn cứ theo Hợp đồng tín dụng số 5603 LAV201405864 ngày 17/9/2014, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 17/9/2014 thể hiện ông Đỗ Minh T và vợ là bà Khuất Thị H cùng đứng tên trong hợp đồng. Theo Sổ hộ khẩu số 01847 của hộ ông Đỗ Minh T và Biên bản xác minh ngày 24/5/2017 của Toà án tại Công an xã T cũng xác định ông T và bà H là vợ chồng. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện H xác định bà Khuất Thị H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và cùng ông T chịu trách nhiệm với đối với khoản tiền đã vay của Ngân hàng nông nghiệp B.

Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, Ngân hàng nông nghiệp B cung cấp cho Toà án Hợp đồng tín dụng số 5603 LAV201405864 ngày 17/9/2014 và các tài liệu chứng cứ liên quan. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 17/9/2014 có xác nhận của Văn phòng Công chứng A, tỉnh Bình Phước thể hiện ông Đỗ Minh T, bà Khuất Thị H tự nguyện thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng 210,8m2 đất có giấy chứng nhận số AN 985097 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 19 tháng 12 năm 2008 do ông bà đứng tên để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ đối với số tiền vay 150.000.000đ. Như vậy, có cơ sở xác định hai bên ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tự nguyện và đúng quy định của Pháp luật.

Theo biên bản kiểm tra sau khi cho vay và giấy xác nhận mua bán bò, trâu có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện ông T, bà H sử dụng tiền vay đúng mục đích là chăn nuôi bò. Theo thoả thuận ông T, bà H có nghĩa vụ trả lãi 06 tháng một lần nhưng ông bà chỉ trả lãi 01 lần vào ngày 19/3/2015. Khi hợp đồng đến hạn, ông T và bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi nên Ngân hàng nông nghiệp B khởi kiện ông T và bà H để thu hồi nợ là phù hợp với hợp đồng tín dụng đã giao kết.

Từ những nhận định trên thấy được yêu cầu của Ngân hàng nông nghiệp B đối với ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Cụ thể số tiền ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H phải trả cho Ngân hàng nông nghiệp B như sau:Nợ gốc: 150.000.000đ.

Tiền lãi trong hạn từ ngày 20/3/2015 đến ngày 17/9/2015 là 7.918.750đ.

Tiền lãi quá hạn lãi quá hạn từ ngày 18/9/2015 đến ngày 20/9/2017 là 48.084.800đ.

Tổng cộng: 206.003.550đ (hai trăm lẻ sáu triệu, không trăm không ba nghìn năm trăm năm mươi đồng).

Yêu cầu của Ngân hàng về việc ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H tiếp tục chịu tiền lãi đối với khoản tiền nợ gốc kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm cho đến khi thanh toán hết nợ theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng là phù hợp với Hợp đồng các bên đã giao kết nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của Ngân hàng nông nghiệp B được chấp nhận nên ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H chịu 10.300.177đ án phí dân sự sơ thẩm.

Từ các lẽ nêu trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26, các điều 35,147,173,203, 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các Điều 94, 95 Luật các tổ chức tín dụng;

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, đại diện là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V Chi nhánh Thị xã B, Bình Phước.

Buộc ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, đại diện là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V Chi nhánh Thị xã B, Bình Phước số tiền gốc và lãi tổng cộng là 206.003.550đ (hai trăm lẻ sáu triệu, không trăm không ba nghìn năm trăm năm mươi đồng). Trong đó, nợ gốc là 150.000.000đ, lãi trong hạn 7.918.750đ và lãi quá hạn tính đến ngày 20/9/2017 là 48.084.800đ.

Ông Đỗ Minh T, bà Khuất Thị H phải tiếp tục chịu tiền lãi đối với khoản tiền nợ gốc kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm cho đến khi thanh toán hết nợ theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Đỗ Minh T và bà Khuất Thị H chịu 10.300.177đ (mười triệu ba trăm nghìn một trăm bảy mươi bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, đại diện là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V Chi nhánh Thị xã B, Bình Phước tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.553.900 đồng theo biên lai số 0012049 ngày 12/4/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hớn Quản.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1014
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/DSST ngày 20/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:36/2017/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về