Bản án 37/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 16 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/TLST-HS, ngày 12/4/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HS, ngày 25/4/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Đức M; (tên gọi khác: Không); sinh năm: 1998; Nơi sinh: Hà Nội; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn L, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn P, sinh năm 1962 và con bà: Trần Thị T, sinh năm 1965; gia đình có 02 anh em, bị cao là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có; Danh chỉ bản số 0042, lập ngày 08/01/2019 tại Công an huyện Gia Lâm, Hà Nội; nhân thân: chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 05/01/2019. Hiện bị cáo Ngô Đức M đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979; Trú tại: Thôn C, xã C, huyện G, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2. Anh Đinh Văn C, sinh năm 1996; Trú tại: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 15 phút ngày 05/01/2019, tổ công tác Đội C sát điều tra tội phạm về ma túy làm nhiệm vụ tại thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội phát hiện Ngô Đức M có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979; Trú tại: thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội nhưng chưa kịp nhận tiền từ Đ thì bị bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng 4cm x 4cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 02 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng 1,5cm x 2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone màu trắng có sim liên lạc. Ngoài ra, thu giữ của Nguyễn Văn Đ: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia có sim liên lạc và số tiền 300.000 đồng.

Theo Kết luận giám định số 276/KLGĐ-PC09 ngày 11/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,754 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Đức M khai nhận: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 05/01/2019, M đang ở quán Internet tại làng Cầu, phường Thạch Bàn, quận Long biên, Hà Nội thì Đ gọi số điện thoại 0382150969 vào số điện thoại của M là 0392511393 để hỏi mua 02 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng/01 túi, M đồng ý và thỏa thuận giao ma túy tại thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Sau đó, M nhắn tin cho một người tên Hiếu là bạn quen biết ngoài xã hội để mua 03 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và mang đến cho M ở khu làng Cầu, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội. Khoảng 10 phút sau, Hiếu đi xe máy không rõ biển kiểm soát mang ma túy đá bán cho M rồi đi về. Cùng ngày, M nhận được điện thoại của bạn quen biết ngoài xã hội là Nguyễn Văn P, sinh năm 2001; Trú tại: Thôn K, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội hỏi M đang ở đâu thì M nói đang ở làng Cầu, Thạch Bàn và bảo P đến đón đi có việc, P đồng ý đi xe máy hiệu Honda Wave màu trắng BKS: 29N1-68209 rủ Đinh Văn C, sinh năm 1996; Trú tại: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đi cùng đến làng Cầu, Thạch Bàn đón M và chở M về làng Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Khi đi đến khu vực nhà văn hóa thôn Cam, Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội thì M bảo P dừng xe trước một ngõ nhỏ và không nói cho P và C biết M đi mua bán ma túy. Sau đó, M xuống xe gặp Đ và chuẩn bị lấy 02 túi ma túy đá để bán cho Đ chưa kịp nhận tiền từ Đ thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng. Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã thu giữ của Nguyễn Văn P: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F5 có lắp sim liên lạc; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS: 29N1-68209; Thu giữ của Đinh Văn C: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel bên trong có sim liên lạc.

Với nội dung trên tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKSGL, ngày 11/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã quyết định truy tố bị cáo Ngô Đức M ra trước Tòa với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo Ngô Đức M đã thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận hành vi mua bán trái phép 0,754 gam Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời lấy tiền tiêu sài cho bản thân là sai, vi phạm pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 40/CT-VKSGL, ngày 11/4/2019. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ngô Đức M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Ngô Đức M mức án phạt tù từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính tư ngay 05/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tuyên:

Tch thu và tiêu hủy: - 01 gói niêm phong có chữ ký của Ngô Đức M và Giám định viên, trong gói niêm phong là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,690 gam do phòng kỹ thuật hình sự PC09 - CATP. Hà Nội hoàn lại sau giám định (Sau khi đã lấy mẫu 0, 064 gam để giám định); Tịch thu và sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn Đ sử dụng để mua ma túy của Ngô Đức M ngày 05/01/2019; - 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc thu giữ của bị cáo Ngô Đức M và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim liên lạc thu giữ của Nguyễn Văn Đ.

Bị cáo M sau khi nghe quan điểm luận tội của đai diên Viên kiêm sat nhân dân huyện Gia Lâm, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận hành vi Mua bán trái phép 0,754 gam Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời lấy tiền tiêu sài cho bản thân là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Đức M: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định, Lời khai người làm chứng và các biên bản, tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 05/01/2019, bị cáo M đang ở quán Internet tại làng Cầu, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội thì Đ gọi số điện thoại 0382150969 vào số điện thoại của M là 0392511393 để hỏi mua 02 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng/01 túi, M đồng ý và thỏa thuận giao ma túy cho Đ tại khu vực thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Sau đó, M nhắn tin cho một người tên Hiếu là bạn quen biết ngoài xã hội để mua 03 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và mang đến cho M ở khu làng Cầu, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội. Khoảng 10 phút sau, Hiếu đi xe máy không mang biển kiểm soát mang ma túy đá bán cho M rồi đi về. Cùng ngày, M nhận được điện thoại của bạn quen biết ngoài xã hội là Nguyễn Văn P, sinh năm 2001; Trú tại: Thôn K, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội hỏi M đang ở đâu thì M nói đang ở làng Cầu, Thạch Bàn và bảo P đến đón đi có việc, P đồng ý đi xe máy hiệu Honda Wave màu trắng BKS: 29N1-68209 rủ Đinh Văn C, sinh năm 1996; Trú tại: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đi cùng đến làng Cầu, Thạch Bàn đón M và chở M về thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Khi đi đến khu vực nhà văn hóa thôn Cam, Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội thì M bảo P dừng xe trước một ngõ nhỏ và không nói cho P và C biết M đi mua bán ma túy. Sau đó, M xuống xe gặp Đ và chuẩn bị lấy 02 túi ma túy đá bán cho Đ và chuẩn bị nhận tiền từ Đ thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lâm kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

[3]. Vật chứng Cơ quan cảnhông an thu giữ của Ngô Đức M: 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng 4cm x 4cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 02 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng 1,5cm x 2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc; Thu giữ của Nguyễn Văn Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim liên lạc và số tiền 300.000 đồng; Thu giữ của Nguyễn Văn P: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F5 có lắp sim liên lạc; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS: 29N1-68209; Thu giữ của Đinh Văn C: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel bên trong có lắp sim liên lạc.

[4]. Tại bản kết luận giám định số 276/KLGĐ-PC09 ngày 11/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,754 gam.

Methamphetamine thuộc danh mục các chất ma túy mà Nhà nước cấm sử dụng.

[5]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 14 giờ 15 phút ngày 05/01/2019, tại khu vực thôn Cam, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, bị cáo Ngô Đức M có hành vi cất giấu khối lượng 0,754 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích bán cho các đối tượng để kiếm lời và khi M đang thực hiện hành vi mua bán trái phép cho Nguyễn Văn Đ 02 túi ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng/01 túi và đang chuẩn bị nhận tiền từ Đ thì bị Cơ quan cảnhông an huyện Gia Lâm kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Ngô Đức M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiển sát: Khẳng định nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, truy tố bị cáo Ngô Đức M ra trước Tòa án theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật. Mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

[7]. Xét tính chất vụ án: Đánh giá tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, trị an xã hội là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm khác. Bị cáo Ngô Đức M là người trưởng thành có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức và hiểu biết pháp luật. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng ngày 05/01/2019 bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép 0,754 gam ma túy loại Methamphetamine. Vì vậy, cần xét xử vụ án nghiêm minh và giành cho các bị cáo một mức hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[8]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình để Cơ quan cảnh sát điều tra, điều tra kết thúc vụ án sớm và đây là lần đầu bị cáo bị truy tố, xét xử. Vì vậy, bị cáo M được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, bị cáo M không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[9]. Về Áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa C.

[10]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong có chữ ký của Ngô Đức M và giám định viên, trong gói niêm phong là ma túy loại Methamphetamine tổng khối lượng 0,690 gam(đã lấy mẫu 0,064 gam). Đây là vật chứng nhà nước cấm lưu hành và liên quan đến tội phạm nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với số tiền 300.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim liên lạc. Đây là tiền và vật chứng liên quan đến tội phạm nên cần tịch thu và sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu vàng, bên trong có lắp sim liên lạc. Đây là tiền và vật chứng không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho anh Đinh Văn C.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, số loại Wave màu trắng mang Biển kiểm soát: 29N1-682.09, số khung: RLHJA3902HY708396, số máy: JA39E0688532, xe cũ đã qua sử dụng. Qua xác minh, xác định ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1961; HKTT: Thôn T, xã D, huyện G, Hà Nội và chỗ ở: Thôn K, xã Đ, huyện G, Hà Nội là người đứng tên trong đăng ký xe. Cơ quan cảnhSĐT Công an huyện Gia Lâm đã tiến hành ghi lời khai của ông Nguyễn Văn C như sau: Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, số loại Wave màu trắng mang Biển kiểm soát: 29N1-682.09, số khung: RLHJA3902HY708396, số máy: JA39E0688532, xe cũ đã qua sử dụng. Ông C mua và đăng ký chính chủ vào ngày 18/9/2018 với giá 17.700.000 đồng. Sau khi mua xong thì ông C vẫn sử dụng hằng ngày. Vào ngày 05/01/2019 ông C có cho con trai là Nguyễn Văn P, sinh năm 2001, chỗ ở: Thôn K, xã Đ, huyện G, Hà Nội mượn chiếc xe máy trên nói là để đi có việc. Sau đó, ông C được biết P đã sử dụng chiếc xe máy của mình để vi phạm pháp luật bị Công an huyện Gia Lâm bắt giữ và tạm chiếc xe trên. Việc P sử dụng xe làm P tiện đi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì ông C hoàn toàn không biết và không có liên quan gì. Ông C đã có đơn xin lại chiếc xe máy trên để lấy làm P tiện đi lại hằng ngày và đã xuất trình đầy đủ giấy tờ đăng ký của chiếc xe. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe cho ông Nguyễn Văn C là có căn cứ, quy định của pháp luật.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 thu giữ của Nguyễn Văn P bên trong có lắp sim liên lạc, do không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 21/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã trao trả lại chiếc điện thoại trên cho Nguyễn Văn P là có căn cứ, quy định của pháp luật.

[11]. Các vấn đề khác trong vụ án:

Đi với Nguyễn Văn Đ có liên lạc trao đổi thỏa thuận thống nhất mua 02 túi ma túy của M nhưng chưa kịp mua thì bị Cơ quan cảnhông an kiểm tra bắt giữ. Do đó chưa cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy hay Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan cảnhông an đã tiến hành xét nghiệm nước tiểu đối với Nguyễn Văn Đ có dương tính với ma túy và khai nhận có sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy, Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Văn Đ số tiền 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/CP/2013 ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực An ninh trật tự - An toàn xã hội.

Đi với Nguyễn Văn P và Đinh Văn C gặp nhau đã thống nhất định mua ma túy chịu của M nhưng chưa kịp hỏi mua ma túy của M thì bị lực lượng Công an kiểm tra. Ngoài ra P và C có đi cùng M đến gặp Đ để M bán ma túy cho Đ nhưng P và C không biết M kiểm tra thì mới biết M tàng trữ ma túy để bán cho Đ. Cơ quan cảnhông an đã tiến hành xét nghiệm nước tiểu đối với Nguyễn Văn P và Đinh Văn C có dương tính với ma túy và khai nhận có sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy, Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Đinh Văn C, Nguyễn Văn P số tiền 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/CP/2013 ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực An ninh trật tự - An toàn xã hội. Ngoài ra, Nguyễn Văn P còn vi phạm hành vi “Chở hai người trên xe”, áp dụng điểm 1 Khoản 3 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 xử phạt 150.000 đồng; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiên xe nhưng không có giấy phép lái xe, áp dụng điểm a khoản 5 Điều 21 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 xử phạt 900.000 đồng.Tổng mức phạt của 03 hành vi là 1.800.000 đồng nhưng P là người vi phạm dưới 18 tuổi phạt tiền ½ mức tiền phạt do đó Công an huyện Gia Lâm ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với P số tiền 900.000 đồng.

Đi với người đã bán ma túy cho M, M chỉ biết nam thanh niên tên Hiếu (không biết tên đầy đủ, địa chỉ của Hiếu). Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm sẽ tiếp tục thu thập tài liệu xác minh về đối tượng này, khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

[12]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện, là lao động tự do thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[13]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bi cao Ngô Đức M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Ngô Đức M 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/01/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Ngô Đức M. .

3. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu và tiêu hủy: - 01 gói niêm phong có chữ ký của Ngô Đức M và giám định viên, trong gói niêm phong là ma túy loại Methamphetamine tổng khối lượng 0,690 gam(đã lấy mẫu 0,064 gam).

- Tịch thu và sung vào ngân sách Nhà nước: 300.000 đồng; - 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim liên lạc.

- Trả lại tài sản cho anh Đinh Văn C: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu vàng, bên trong có lắp sim liên lạc .

(Số vật chứng, tài sản trên có đặc điểm như nội dung có trong Biên bản bàn giao vật chứng, tài sản lập ngày 12/4/2019 và biên lai thu tiền số AA/2010/1473, ngày 18/4/2019 hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý).

4. Áp dụng Điều 136; Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, bi cao Ngô Đức M phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn Đ, anh Đinh Văn C. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về