Bản án 43/2017/HS-ST ngày 09/08/2017 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 43/2017/HSST NGÀY 09/08/2017 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Vào hồi 07 giờ 45 phút, ngày 09 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hưng Yên.

Xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 42/2017/HS-ST ngày 12/7/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1973.

Sinh quán: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

Chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã B, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.

Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Kinh doanh.

Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1947. Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Con bà: Trần Thị H, sinh năm 1951, nghề nghiệp: Làm ruộng. Vợ: Nguyễn Thị O, sinh năm 1974, nghề nghiệp: Làm ruộng.

Bị cáo có ba con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2007.

Nhân thân: Ngày 19 tháng 10 năm 2012, bị Công an thành phố H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác”.

Tiền sự: Ngày 31 tháng 5 năm 2016, bị Công an thành phố H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”.

Tiền án: Ngày 28/6/1997, Tòa án nhân dân tối cao tuyên phạt 06 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (bị cáo chưa nộp tiền phạt bổ sung và án phí).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14 tháng 12 năm 2016 đến ngày 22 tháng 12 năm 2016 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Mạnh T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hưng Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Mạnh T là chủ quán kinh doanh dịch vụ xông hơi, massage tại quán Hồng Lâu Mộng thuộc thôn T, xã B, thành phố H, T thuê 4 nhân viên nữ là chị Hoàng Thị K, chị Chu Thị V, chị Hoàng Thị Q và chị Nguyễn Thị H làm việc tại quán. Trong quá trình hoạt động kinh doanh có nhiều khách là nam giới đến xông hơi, massage và có đặt vấn đề với T để được mua bán dâm với nhân viên nữ của quán. T đặt vấn đề với 4 nhân viên nữ để những nhân viên này bán dâm cho khách tại quán của T. T thỏa thuận mỗi lần bán dâm cho khách T sẽ thu của khách là 250.000đ, sau khi bán dâm cho khách xong T sẽ trả cho nhân viên nữ trực tiếp bán dâm cho khách là 100.000đ, còn lại 150.000đ là tiền T được hưởng. Các chị K, V, Q, và H đều đồng ý với T sẽ bán dâm cho khách khi khách có nhu cầu. Khoảng 22 giờ ngày 13/12/2016, anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn M đi cùng nhau đến quán của T và đặt vấn đề mua dâm quan hệ tình dục với nhân viên tại quán, T đồng ý và đưa ra giá mỗi người mua dâm 250.000đ một lần mua dâm. Sau đó T đưa anh T và M lên tầng 4 và vào phòng 404 thì gặp chị K, chị V đang ở đó. T yêu cầu chị K và V bán dâm cho anh T và anh M. Lúc này anh M đưa cho T số tiền 500.000đ để trả cho việc mua dâm của M và anh T. Sau đó anh M vào phòng 404 với chị K còn anh T đi cùng chị V sang phòng 401 để quan hệ tình dục. Khi cả hai đôi đang quan hệ tình dục thì bị lực lượng Công an Thành phố H kiểm tra bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm:

Thu tại phòng số 401: 01 bao cao su đã qua sử dụng màu trắng đục, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor màu trắng. Thu tại phòng số 404: 01 bao cao su đã qua sử dụng, màu trắng đục; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor màu trắng. Thu trên người Nguyễn Mạnh T số tiền 3.597.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số IMEI 358925075017182, điện thoại đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R8106 màu đen, số IMEI 865884024326499, điện thoại đã qua sử dụng, phần ốp vỏ phía sau bị xước bạc mờ, lớp sơn lộ màu trắng. Thu giữ tại hành lang tầng 4, gần cầu thang 01 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor đã dung dở, trong hộp còn 141 bao cao su chưa sử dụng. Thu giữ tại quầy lễ tân tầng một 12 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor còn nguyên chưa sử dụng, mỗi hộp có 144 bao cao su.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Mạnh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Ngoài ra, T còn khai số tiền 3.597.000đ cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ có 500.000đ là của anh M trả tiền mua dâm. Số tiền còn lại là tiền tiết kiệm của T.

Tại bản Cáo trạng số: 47/QĐ-VKS-HS ngày 18/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội “Chứa mại dâm” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 254; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS; Nghị quyết 144/2016/QH13, điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, được trừ đi 09 ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải thi hành 11 tháng 21 ngày đến 01 năm 02 tháng 21 ngày. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

+ Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a,c,đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu cho tiêu hủy: 02 bao cao su màu trắng đục đã qua sử dụng; 02 vỏ bao cao nhãn hiệu Doctor, màu trắng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor đã dùng dở, bên trong còn 141 chiếc bao cao su chưa sử dụng; 12 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor còn nguyên vẹn chưa sử dụng, mỗi hộp có 144 chiếc bao cao su là công cụ, phương tiện liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

- Trả lại Nguyễn Mạnh T số tiền 3.097.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số IMEI 358925075017182, điện thoại đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R8106 màu đen, số IMEI 865884024326499, điện thoại đã qua sử dụng, phần ốp vỏ phía sau bị xước bạc mờ, lớp sơn lộ màu trắng là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

-  Trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 05A8004042 do UBND thành phố H cấp ngày 09/6/2015 mang tên hộ kinh doanh Nguyễn Mạnh T.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người làm chứng.

XÉT THẤY

Trong quá trình điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ và đúng trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố H lập hồi 22 giờ 30 phút ngày 13/12/2016 đối bị cáo Nguyễn Mạnh T; lời khai của những người làm chứng: Chị Hoàng Thị K (C), chị Chu Thị V, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn M, chị Hoàng Thị Q, chị Nguyễn Thị H, anh Lê Xuân C. Cùng vật chứng đã thu giữ được và các tài liệu khác có liên quan trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 13 tháng 12 năm 2016, tại quán kinh doanh dịch vụ xông hơi, Massage Hồng Lâu Mộng ở Thôn T, xã B, thành phố H, tỉnh Hưng Yên do Nguyễn Mạnh T làm chủ, T đã có hành vi sử dụng quán của mình để chứa chấp cho hai đôi nam nữ là Nguyễn Văn T cùng Chu Thị V và Nguyễn Văn M cùng Hoàng Thị K quan hệ tình dục với nhau, thu 500.000đ thì bị lực lượng Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và áp dụng điều luật như bản Cáo trạng đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, đời sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố H. Hành vi đó là nguyên nhân làm lây truyền các loại bệnh nh ư HIV/AIDS và các bệnh xã hội khác, nhưng vì mục đích vụ lợi, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo có nhân thân xấu thể hiện: Ngày 31 tháng 5 năm 2016, bị Công an thành phố H xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau. Năm 1997, bị Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 06 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chưa được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học, rèn luyện tu dưỡng bản thân, nay bị cáo lại phạm tội do lỗi cố ý, điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Do đó Hội đồng xét xử xét cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo và cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bố đẻ bị cáo là ông Nguyễn Văn H thương binh, thương tật hạng 4/4 (24%), người có công với cách mạng. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được qui định tại khoản 2 điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo BLHS năm 2015, tình tiết giảm nhẹ này được qui định tại điểm x khoản 1 điều 51. Áp dụng hướng dẫn tại điểm b khoản 4 điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội khóa 13 , về quy định có lợi cho người phạm tội thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này của bị cáo sẽ được qui định tại điểm x khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015. Ngoài ra, bị cáo có đơn trình bầy hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị tai nạn giao thông nhận thức hạn chế, ốm yếu không lao động được (có bệnh án), bố mẹ già yếu không có người trông nom và xin giảm nhẹ hình phạt (đơn được chính quyền địa phương xác nhận). Nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.

Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị bắt quả tang, chưa có thu lợi bất chính, hoàn cảnh gia đình có khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

+ 02 phong bì thư được niêm phong, trong mỗi bì thư có 01 chiếc bao cao su màu trắng đục đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su đã xé, nhãn hiệu Doctor, màu trắng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor đã dùng dở, còn 141 chiếc bao cao su chưa sử dụng; 12 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor còn nguyên chưa sử dụng, mỗi hộp có 144 chiếc bao cao su, thu giữ trong quá trình khám xét địa điểm chứa dâm của bị cáo là công cụ, phương tiện liên quan đến việc phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên tịch thu cho tiêu hủy.

+ Số tiền 500.000đ thu giữ của bị cáo T là tiền do bị cáo thu của người mua dâm nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Số tiền 3.097.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số IMEI 358925075017182, điện thoại đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R8106 màu đen, số IMEI 865884024326499, điện thoại đã qua sử dụng, phần ốp vỏ phía sau bị xước bạc mờ, lớp sơn lộ màu trắng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 05A8004042 do UBND thành phố H cấp ngày 09/6/2015 mang tên hộ kinh doanh Nguyễn Mạnh T tài sản và giấy tờ không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên căn cứ khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh T.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội "Chứa mại dâm".

Áp dụng khoản 1 Điều 254, điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS; Điểm b khoản 4 điều 1 Nghị quyết số 144/QH13 ngày 29 tháng 6 năm 2016; khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm x khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, được trừ đi 09 (chín) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 01 (một) năm 02 (hai) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 điều 76, khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu cho tiêu hủy: 02 phong bì thư được niêm phong, trong mỗi bì thư có 01 chiếc bao cao su màu trắng đục đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su đã xé, nhãn hiệu Doctor, màu trắng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor đã dùng dở, bên trong còn 141 chiếc bao cao su chưa sử dụng; 12 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor còn nguyên chưa sử dụng, mỗi hộp có 144 chiếc bao cao su.

+ Tịch thu Sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000vnđ (Bằng chữ: năm trăm nghìn đồng chẵn) thu giữ của Nguyễn Mạnh T.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Mạnh T số tiền  3.097.000 vnđ (Bằng chữ: Ba triệu không trăm chin mươi bẩy nghìn đồng chẵn) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số IMEI 358925075017182, điện thoại đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R8106 màu đen, số IMEI 865884024326499, điện thoại đã qua sử dụng, phần ốp vỏ phía sau bị xước bạc mờ, lớp sơn lộ màu trắng.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 25/QĐ-VKS ngày 11/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hưng Yên).

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Mạnh T: 01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 05A8004042 do UBND thành phố H cấp ngày 09/6/2015 mang tên hộ kinh doanh Nguyễn Mạnh T.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

387
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2017/HS-ST ngày 09/08/2017 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:43/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hưng Yên - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về