Bản án 55/2017/HSST ngày 21/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PH ÒNG

BẢN ÁN 55/2017/HSST NGÀY 21/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 21 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 47/2017/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Lê Văn M, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1998; ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12; con ông Lê Văn K, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1959. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18tháng 7 năm 2017, có mặt tại phiên toà.Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn M: Ông Lê Bá C, Luật sư Công ty Luật C, Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng, có mặt.

Người bị hại: Chị Lê Thị N (đã chết) Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Anh Phạm Văn H, sinh năm 1974, địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng (chồng của chị N), có mặt tại phiên tòa

- Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1955, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng (mẹ đẻ của chị N), có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Văn M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ 30 ngày 20 tháng 11 năm 2016, Lê Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Sirius, BKS 15C1-281.73 (không có giấy phép lái xe) chở Phạm Thị Thùy L, sinh năm 2001, trú quán: Thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng đi trên đường 208 theo hướng xã A đi thị trấn A với tốc độ 50km/h. Khi đi đến khu vực thuộc thôn H, huyện H, huyện A, Hải Phòng, M quan sát thấy phía trước mặt cách xe M khoảng 30m có chị Lê Thị N, sinh năm 1982, trú quán: Thôn H, huyện H, huyện A, Hải Phòng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Detech, BKS 16K1-3739 đi ngược chiều tại phần đường dành cho xe cơ giới hướng xã A đi thị trấn A với tốc độ chậm. Lê Văn M không giảm tốc độ mà vẫn đi tiếp. Khi xe mô tô của M cách xe mô tô của chị N khoảng 10m, chị N quay sau quan sát rồi bất ngờ đánh lái sang phải để sang đường. M đánh lái sang trái để tránh nhưng có xe mô tô khác đi ngược chiều nên M lại đánh lái xe sang phải và đâm vào đầu xe mô tô của chị N. Hậu quả: Chị N bị thương, 02 xe mô tô bị hư hỏng, đến ngày 21 tháng 11 năm 2016 chị N chết.

Sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện, trưng cầu giám định để xác định dấu vết, chiều hướng, trạng thái, vị trí va chạm trên mặt đường giữ xe mô tô BKS 15C1-281.73 với xe mô tô BKS 16K1-3739.

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn trên đoạn đường 208 thuộc thôn H, xã H, huyện A, Hải Phòng mặt đường có độ rộng 09m, không có hệ thống vạch sơn kẻ đường và hệ thống biển báo hiệu giao thông đường bộ. Trên mặt đường có các dấu vết: Đám xước liên tục dài 238cm, rộng trung bình 15cm có chiều hướng ngã ba xã H đi thị trấn A; Đám trượt xước màu đen liên tục dài 202cm, rộng trung bình 08cm, có chiều hướng ngã ba xã H đi thị trấn A; Dấu vết xước liên tục hình dạng vòng cung dài 66cm, rộng trung bình 02cm, có chiều hướng ngã ba H đi thị trấn A; Dấu vết máu tập trung trong diện 19cm x 21cm trên mặt đường; Xe mô tô BKS16K1-3739 đổ nghiêng sang phải trên mặt đường, đầu xe hướng về phía ngã ba H, sau xe hướng về phía thị trấn A.

Khám nghiệm xe mô tô BKS 15C1-281.73 thấy: Đầu ốp nhựa chắn bùn bánh trước có đám mài trượt, bám dính tạp chất nâu đỏ dạng sơn khô kích thước 13cmx15cm, chiều hướng dấu vết từ phải sang trái.

Khám nghiệm xe mô tô BKS 16K1-3739 thấy: Mặt ngoài đầu ốp chắn bùn bánh trước có dấu vết trượt xước mất sơn màu đỏ.

Tại Bản kết luận giám định số 36/GĐCH-PC54 ngày 22 tháng 12 năm 2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Dấu vết trượt xước mất sơn màu đen, bám dính tạp chất màu đỏ (dạng sơn) theo chiều từ trước về sau tại mặt ngoài ốp chắn bùn bánh trước xe mô tô BKS 15C1-281.73 phù hợp với dấu vết trượt xước mất sơn màu đỏ tại mặt ngoài đầu ốp chắn bùn bánh trướcxe mô tô BKS 16K1-3739. Không đủ căn cứ xác định phần đường va chạm giữa xemô tô 15C1-281.73 với xe mô tô BKS 16K1-3739.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 275/2016/TT ngày 07/12/2016 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Nạn nhân Lê Thị N bị tai nạn giao thông chết vì suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp không hồi phục do chấn thương sọ não nặng.

Tại Cáo trạng số 58/CT- VKS ngày 20/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Lê Văn M về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Lê Văn M khai nhận như nội dung cáo trạng đã nêu.

Bị cáo khai lý do không có giấy phép lái xe là do tại thời điểm đó bị cáo mới 18 tuổi 01 tháng nên chưa kịp đi học để thi lấy giấy phép. Bị cáo thừa nhận trong vụ tai nạn giao thông này lỗi chính là do bị cáo không làm chủ tốc độ, không giảm tốc độ khi tránh xe của chị N đi ngược chiều, nhưng chị N đi không đúng phần đường, khi chuyển hướng không xi nhan và sang đường không dứt khoát nên bị cáo không kịp xử lý và hai xe đã đấu đầu vào nhau.

Đại diện người bị hại giữ nguyên quan điểm xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Công bố lời khai người làm chứng có nội dung như bị cáo đã khai nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 202; Điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn M 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo M đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 130.000.000đ, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xét.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra Công an huyện A đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô BKS 16K1-3739 và đăng ký xe cho anh Phạm Văn H (chồng chị N) quản lý, sử dụng; Trả lại chiếc xe mô tô BKS 15C1-281.73 và đăng ký xe cho bị cáo Lê Văn M quản lý, sử dụng nên không xét.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn M phát biểu quan điểm: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật truy tố và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chiếu cố hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thuộc diện cận nghèo, bố bị tai nạn chấn thương sọ não, mẹ tuổi cao ốm yếu, bị cáo là con một và là lao động chính trong gia đình nên cho bị cáo được cải tạo tại địa phương để bị cáo lao động chăm sóc bố mẹ và khắc phục hậu quả về kinh tế do vụ tai nạn giao thông bị cáo gây ra.

Căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với sơ đồ, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm các phương tiện, phù hợp với kết luận giám định và bản kết luận giám định pháp y về tử thi. Đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Văn M có hành vi điều khiển xe mô tô BKS 15C1-281.73 tham gia giao thông không tuân thủ về tốc độ xe chạy trên đường, không giảm tốc độ đến mức không còn nguy hiểm khi tránh xe ngược chiều vi phạm Khoản 9, Điều 8 Luật Giao thông đường bộ và Khoản 8, Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Bộ Giao thông vận tải gây tai nạn hậu quả làm chết một người. Hành vi của bị cáo Lê Văn M đã phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" vi phạm Điều 202 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố là có căn cứ pháp luật.

Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, xâm phạm đến trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, gây tâm lý lo ngại cho người tham gia giao thông; vì lẽ đó phải xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo Lê Văn M điều khiển xe mô tô phân khối lớn không có giấy phép lái xe tham gia giao thông gây tai nạn hậu quả làm chết một người do vậy hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm điểm a Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Xét về lỗi: Trong vụ tai nạn giao thông này lỗi chính là do bị cáo Lê Văn M điều khiển xe mô tô khi tham gia giao thông không tuân thủ về tốc độ xe chạy trên đường, không giảm tốc độ đến mức không còn nguy hiểm khi tránh xe ngược chiều, nhưng người bị hại trong vụ án này là chị Lê Thị N điều khiển xe đi không đúng phần đường quy định, khi chuyển hướng không xi nhan và sang đường không dứt khoát làm cho người đi ngược chiều khó xử lý nên xác định người bị hại cũng có một phần lỗi.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, công khai xin lỗi gia đình người bị hại, bị cáo đã cùng gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại, người đại diệnhợp pháp của người bị hại có quan điểm xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi, bố bị cáo có thời gian tham gia quân đội và được tặng bằng khen nên khi lượng hình cần áp dụng điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lê Văn M nhân thân chưa có tiền án tiền sự phạm tội lần đầu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, bị cáo hiện đang tại ngoại có nơi cư trú rõ ràng, gia đình có đơn bảo lãnh nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện cận nghèo, bố bị cáo bị tai nạn chấn thương sọ não, mẹ bị cáo tuổi cao ốm yếu, bản thân bị cáo mới 18 tuổi nhận thức về pháp luật còn hạn chế, hiện là lao động chính trong gia đình nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương, tạo điều kiện cho bị cáo lao động chăm lo cho bố mẹ và ổn định kinh tế gia đình, thể hiện tính nhân đạo khoan hồng của pháp luật.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra Công an huyện A đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô BKS 16K1-3739 và đăng ký xe cho anh Phạm Văn H (chồng chị N) quản lý, sử dụng; Trả lại chiếc xe mô tô BKS 15C1-281.73 và đăng ký xe cho bị cáo Lê Văn M quản lý, sử dụng nên Hội đồng xét xử không xét.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình người bị hại đã nhận bồi thường số tiền 130.000.000đ và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ".

Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 202; Điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn M 36 ( ba mươi sáu ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2017/HSST ngày 21/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:55/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về