Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về ly hôn giữa chị H và anh S

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH S

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp "Ly hôn, nuôi con chung" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXX-ST ngày 10 tháng 9 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 23/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 25-9-2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy H, sinh nặm 1981( có mặt)

Địa chỉ: Khu T, thị trấn H, huyện H1, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến S, sinh năm 1974 (vắng mặt)

Địa chỉ: Khu T, thị trấn H, huyện H1, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Thúy H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Tiến S kết hôn cùng nhau do đôi bên tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) thị trấn H, huyện H1, tỉnh Thái Bình vào ngày 20-11-2002. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi nhau mặc dù hai vợ chồng đã cố gắng khắc phục nhưng không được nên vợ chồng ngày càng lạnh nhạt tình cảm. Mâu thuẫn trầm trọng nhất vào khoảng năm 2016 - 2017, vợ chồng không khắc phục được đã sống sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện H giải quyết cho chị được ly hôn anh S.

Về nuôi con chung: Chị và anh S có 02 con chung là Nguyễn Lê Quốc B, sinh ngày 23-3-2004 và Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 30-4-2011, hiện cả 02 con chung do chị nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi cả 02 con không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Tiến S vắng mặt nên không có ý kiến trình bầy.

Tại các biên bản ghi lời khai 31-7-2019 và ngày 06-9-2019, anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1972, cư trú tại: tổ 3, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (là anh trai của anh S) trình bày: Anh Nguyễn Tiến S kết hôn cùng chị Lê Thị Thúy H do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn H, huyện H1, tỉnh Thái Bình vào năm 2002. Sau khi kết hôn chị H và anh S chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S chơi bời dẫn đến vợ chồng hay xảy ra cãi nhau, hai bên gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không được. Đến năm 2017 anh S tự ý bỏ đi miền Nam làm ăn, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh D thấy vợ chồng chị H, anh S khó có khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H và anh S ly hôn để phóng cho cả hai bên.

Về nuôi con chung: Chị H và anh S có 02 con chung là Nguyễn Lê Quốc B, sinh ngày 23-3-2004 và Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 30-4-2011, hiện cả 02 con chung do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu Tòa án giải quyết cho chị H và anh S ly hôn, đề nghị Tòa án giao cả 02 con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh S không có tài sản chung và nợ chung.

Anh đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà gửi cho anh S, anh đã thông báo nội dung các văn bản trên cho anh S qua điện thoại, quan điểm của anh S là: Hiện nay đang làm ăn tại miền Nam, anh không về Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà để giải quyết vụ án theo giấy báo của Tòa án được, việc ly hôn gữa anh với chị H để anh và chị H tự giải quyết. Anh S không cung cấp địa chỉ nơi anh đang sinh sống và làm việc cho anh nên anh không thể cung cấp cho Tòa án được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giám sát sự tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, chị H đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh S không thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Anh S vắng măt tại địa phương, Tòa án đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án đối với anh S theo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Lê Thị Thúy H được ly hôn anh Nguyễn Tiến S; về nuôi con chung: giao 02 con chung là Nguyễn Lê Quốc B, sinh ngày 23-3-2004 và Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 30-4-2011, cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh S thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H; về chia tài sản chung: Chưa giải quyết; về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị Thúy H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Tiến S, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án cho anh S, anh S biết việc TAND huyện Hưng Hà đang thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh S nhưng anh S đang làm ăn ở miền Nam, không cung cấp địa chỉ cụ thể cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Chị H đề nghị Tòa án không hòa giải nên TAND huyện Hưng Hà tiến hành xét xử vắng mặt anh S theo trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ theo quy tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Thúy H kết hôn với anh Nguyễn Tiến S tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn H, huyện H1, tỉnh Thái Bình vào ngày 20-11-2002, là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hòa thuận, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi nhau, chị H và anh S không khắc phục được đã sống ly thân từ năm 2017. Hội đồng xét xử thấy: Chị H, anh S mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh S, cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh S là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị H và anh S có 02 con chung là Nguyễn Lê Quốc B, sinh ngày 23-3-2004 và Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 30-4-2011, hiện cả 02 con chung do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy cả 02 con chung đều có nguyện vọng được ở cùng chị H, hơn nữa anh S hiện không có mặt tại địa phương nên cần giao cả 02 con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng và chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H là phù hơp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản: Mặc dù chị H và anh D đều trình bày: Vợ chồng chị H, anh S không có tài sản chung, không vay nợ ai, nhưng do chưa có ý kiến trực tiếp của anh S nên Tòa án không xem xét giải quyết về phần tài sản chung của chị H và anh S tại phiên tòa này. Chị H và anh S có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản (nếu có) bằng vụ kiện dân sự khác.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà về hướng giải quyết vụ án phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Thúy H và anh Nguyễn Tiến S.

2.Về nuôi con chung: Giao cho chị Lê Thị Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Lê Quốc B, sinh ngày 23-3-2004 và Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 30-4-2011, anh S không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H. Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chưa giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 000691 ngày 26-7-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (Chị H đã nộp đủ tiền án phí).

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Thúy H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Tiến S có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về ly hôn giữa chị H và anh S

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về